Người Bảo vệ Nhân quyền, thông cáo báo chí, ngày 31/12/2020
Theo thống kê của tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders- DTD), tính đến ngày 31/12/2020, chế độ cộng sản Việt Nam đang giam giữ ít nhất 258 tù nhân lương tâm trong các nhà tù hoặc các hình thức giam giữ khác. Con số không bao gồm ông Ngô Hào hiện đang được hưởng án treo để chữa bệnh và ông Lê Anh Hùng bị cưỡng bức trong bệnh viện tâm thần mà không có thủ tục xét xử. Danh sách bao gồm nhà hoạt động nữ Huỳnh Thục Vy đã bị kết án nhưng bị quản thúc tại gia trong thời kỳ làm mẹ và công dân Úc ông Châu Văn Khảm bị kết tội khủng bố theo Điều 113 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Con số không bao gồm 15 dân oan ở xã Đồng Tâm bị bắt vào ngày 9/1 năm nay trong cuộc tấn công của hàng nghìn công an và cảnh sát cơ động và bị kết tội “chống người thi hành công vụ” tại phiên xử sơ thẩm ngày 7-14/9 nhưng đượchưởng án treo.
Có tới 27 trong số các tù nhân lương tâm được Người Bảo vệ Nhân quyền xác định là những nữ bảo vệ nhân quyền.
Tổng cộng, 186 người, chiếm 72% trong danh sách, là người dân tộc Kinh. Nhóm dân tộc lớn thứ hai trong danh sách là người Thượng, một nhóm tôn giáo và dân tộc thiểu số sống ở vùng núi Tây Nguyên. Họ chiếm 62 người hoặc 24% trong tổng số tù nhân lương tâm. Có tám tù nhân lương tâm là người dân tộc thiểu số Hmong và hai trong danh sách là người Khmer Krom.
Tù nhân lương tâm trong danh sách của Người Bảo vệ Nhân quyền là những blogger, luật sư, người hoạt động công đoàn, nhà hoạt động về quyền đất đai, nhà bất đồng chính kiến, người hoạt động nhân quyền và tín đồ của các tôn giáo thiểu số không đăng ký đã bị bắt giữ và kết án chỉ vì thực hiện một cách ôn hoà các quyền được bảo vệ bởi các công ước nhân quyền quốc tế và hiến pháp Việt Nam như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do của tôn giáo hoặc niềm tin. Danh sách này không bao gồm các cá nhân đã tham gia hoặc ủng hộ bạo lực.
Việt Nam vẫn còn giam giữ 33 nhà hoạt động trước khi xét xử, 7 người trong số họ bị bắt vào năm 2018-2019 và 26 người còn lại bị bắt vào năm 2020. Trong số đó nổi bật là Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thụy và blogger chính trị nổi tiếng Phạm Chí Thành (blogger Phạm Thành), nhà bảo vệ nhân quyền và blogger chính trị Phạm Đoan Trang. Các ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thuỵ và biên tập viên Lê Hữu Minh Tuấn sẽ bị đưa ra tòa vào ngày 5/1/2021với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Họ phải đối mặt với án tù từ 10 năm đến 20 năm tù nếu bị kết án.
Những người trên bao gồm 225 người đã bị kết án – hầu hết là bị kết tội theo các Điều 79, 87 và 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 109, 116, và 117 trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trong tổng số 258 tù nhân lương tâm có:
– 50 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội lật đổ (Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 49 nhà hoạt động bị kết án hoặc bị cáo buộc hoạt động tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 56 người dân tộc thiểu số bị kết tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc (Điều 87 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 20 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015);
– 13 nhà hoạt động bị kết án hoặc truy tố tội “gây rối an ninh” theo Điều 118 Bộ luật Hình sự 2015;
– 30 cá nhân bị kết án hoặc truy tố tội “Gây rối trật tự công cộng” (theo Điều 245 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015) vì các hoạt động ôn hòa của họ. Có tới 17 người trong số họ đã bị bỏ tù vì tham gia hoặc bị nghi ngờ lên kế hoạch tham gia các cuộc biểu tình vào giữa tháng 6 năm 2018;
– Ba nhà hoạt động Châu Văn Khảm (người Úc gốc Việt), Nguyễn Văn Viễn, và Trần Văn Quyền bị kết tội “khủng bố” theo Điều 113 Bộ luật Hình sự 2015.
– Hiện chưa rõ tội danh của 13 cá nhân, trong đó có 3 người Thượng theo giáo phái Hà Mòn bị bắt vào ngày 19/3 năm nay.
Việt Nam là một trong những nhà tù lớn nhất thế giới dành cho nhà báo và Facebooker, giam giữ 28 người, theo báo cáo của tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) công bố ngày 1/12. Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) có trụ sở tại New York ) cũng đã đưa Việt Nam vào danh sách những nhà tù lớn nhất thế giới dành cho các nhà báo với 15 nhà báo bị giam cầm.
Bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế
Để đảm bảo một “xã hội ổn định” cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền tiến hành đại hội đảng bộ địa phương và chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ 13 dự kiến vào cuối tháng 1 năm 2021, chế độ cộng sản đã thắt chặt kiểm soát xã hội, tăng cường đàn áp những người bất đồng chính kiến, những người chỉ trích chế độ, người hoạt động xã hội và người bảo vệ nhân quyền.
Cuộc đàn áp tiếp tục diễn ra trước và sau khi Quốc hội Châu Âu phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU (EVFTA) vào cuối tháng 3 và lên đến đỉnh điểm vào tháng 5-6 với việc bắt giữ 12 nhà hoạt động.
Khi Hoa Kỳ, EU và các quốc gia khác đang tập trung vào các vấn đề của riêng họ do đại dịch Covid-19 và cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 3/11, chế độ cộng sản Việt Nam đã tận dụng cơ hội để tăng cường đàn áp giới bất đồng chính kiến mà không bị chỉ trích bởi cộng đồng quốc tế. Cuộc đàn áp đã lên đến đỉnh điểm trong những tháng gần đây với việc bắt giữ hàng chục nhà hoạt động bị buộc tội với các điều khoản mơ hồ trong phần an ninh quốc gia của Bộ luật Hình sự.
Bắt giữ trong năm 2020
Từ ngày 1/1 đến 31/12, Việt Nam đã bắt giữ 37 nhà hoạt động và 29 người khiếu kiện đất đai ở xã Đồng Tâm. Có tới 13 nhà hoạt động bị buộc tội “tuyên truyền chống phá nhà nước” và trong số đó có blogger chính trị nổi tiếng Phạm Đoan Trang, ông Nguyễn Tường Thụy, blogger Phạm Thành, 4 các nhà bảo vệ nhân quyền ở Dương Nội, nhà môi trường Đinh Thị Thu Thủy và nhà báo độc lập Trần Thị Tuyết Diệu ở Tây Nguyên. Mười người khác bị cáo buộc “lạm dụng quyền tự do dân chủ,” trong đó có blogger nổi tiếng Trương Châu Hữu Danh.
Vào giữa tháng Ba, chính quyền ở Tây Nguyên cho biết họ đã bắt giữ ba tín đồ cuối cùng của giáo phái Hà Mòn đã sống trong rừng trong tám năm qua nhằm tránh bị chế độ cộng sản bắt giữ. Chế độ coi giáo phái này là bất hợp pháp và cố gắng giải tán nó bằng cách bỏ tù những người theo chủ chốt và người sáng lập của giáo phái. Hiện vẫn chưa biết 3 người này bị kết tội gì và khi nào.
Vào ngày 6/10, trong ngày Đối thoại Nhân quyền thường niên lần thứ 24 giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhà cầm quyền thành phố Hà Nội đã bắt giữ Phạm Đoan Trang và cáo buộc cô “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự và Điều 117 của Bộ Bộ luật Hình sự. Cô sẽ phải đối mặt với án tù lên đến 20 năm nếu bị kết tội.
Vào ngày 9/1, sau khi cử hàng ngàn cảnh sát chống bạo động giết chết lãnh đạo tinh thần xã Đồng Tâm ông Lê Đình Kình, nhà cầm quyền Hà Nội đã bắt giữ hơn 30 dân oan về đất đai tại địa phương, trong đó có người thân của ông Kình, người từng giữ nhiều chức vụ chủ chốt trong chính quyền xã Đồng Tâm. Sau đó, họ buộc tội 6 người trong số họ về tội “giết người” và 23 người còn lại với tội “chống lại người thi hành cộng vụ” để trả thù cho cuộc phản kháng củangười dân Đồng Tâm phản đối kế hoạch của thành phố lấy ruộng nông nghiệp của họ ở đồng Sênh từ năm 2017.
Vào cuối tháng 9, Công an tỉnh Đắk Lắk đã bắt cóc Phạm Đình Quý, giảng viên Đại học Tôn Đức Thắng, và Hoàng Minh Tuấn, giáo viên trường THPT Lê Thánh Tôn ở thành phố Nha Trang, và đưa họ về trụ sở Sở Công an ở thành phố Buôn Ma Thuột để thẩm vấn về việc tố cáo Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Bùi Văn Cường đạo văn khi đang làm luận án tiến sĩ. Cả hai bị tạm giữ và bị điều tra về tội “vu khống” khi Công an tỉnh Đắk Lắk hình sự hóa một vụ tranh chấp dân sự giữa hai người bị tạm giữ và Bí thư Cường, người là uy viên Trung ương Đảng, ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho nhiệm kỳ tới.
Kết án trong năm 2020
Trong năm 2020, chế độ cộng sản Việt Nam đã kết tội 23 nhà hoạt động và 29 dân oan đất Đồng Tâm.
Bốn nhà hoạt động bị kết tội “tuyên truyền chống nhà nước” và bị kết án từ năm đến 12 năm tù. Nhà vận động dân chủ Nguyễn Trung Linh bị kết án 12 năm tù, mức tù nặng nề nhất cho tội danh này. Ông đã bị biệt giam kể từ khi bị bắt vào cuối tháng 5 năm 2018 cho đến khi bị xét xử một cách bí mật vào tháng 7 năm nay.
Năm Facebooker bị kết tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ” vì đăng tin trực tuyến và bị phạt tù từ chín tháng đến 18 tháng.
Vào giữa tháng 12, cựu sỹ quan quân đội cộng sản và blogger Trần Đức Thạch đã bị kết tội lật đổ và bị kết án 12 năm tù giam và ba năm quản chế bởi phiên xử sơ thẩm chỉ kéo dài ba giờ. Nhà hoạt động dân chủ 68 tuổi bị bắt vào cuối tháng Tư.
Vào giữa tháng 3, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã kết án Sùng A Sính và Lầu A Lềnh người dân tộc Hmông về tộidanh “hoạt động nhằm lật đổ chế độ” và kết án họ tù chung than. Theo truyền thông nhà nước, hai nhà hoạt động này đã thuyết phục người dân tộc Hmong khác vào tháng 8 năm 2018 và tháng 3 năm 2019 thành lập nhà nước Hmong ở huyện Mường Nhé, Điện Biên. 12 người khác bị coi là đồng phạm và bị kết án từ 2 đến 20 năm tù cho cùng tội danh, tuy nhiên, tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền không có thông tin về những người này.
Ngày 31/7, Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết án tám thành viên nhóm Hiến Pháp là Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Hoàng Thị Thu Vang, Ngô Văn Dũng, Đoàn Thị Hồng, Trần Thanh Phương, Lê Quý Lộc, Đỗ Thế Hoá và Hồ Văn Cương bị bắt vào đầu tháng 9 năm 2018 với tội danh “gây rối an ninh” theo Điều 118 của Bộ luật Hình sự để trả thù việc họ tích cực tham gia cuộc biểu tình tại thành phố HCM ngày 10/6/2018, một cuộc biểu tình rong đó hàng chục nghìn người biểu tình phản đối hai dự luật Đặc khu kinh tế và An ninh mạng. Trong phiên toà xét xử ngắn ngủi không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về một phiên tòa công bằng, các nhà hoạt động đã bị kết án từ 30 tháng đến 8 năm tù và 2 đến 3 năm quản chế. Bốn nhà hoạt động Ngô Văn Dũng, Lê Quý Lộc, Hồ Văn Cương, và Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã kháng cáo phán quyết của tòa án và phiên xử phúc thẩm của họ được lên kế hoạch vào ngày 8/1/2021.
Trong phiên xét xử sơ thẩm đối với 29 người dân oan Đồng Tâm vào ngày 7-14/9, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã kết tội 6 người trong số họ tội danh giết người cho những chết chưa được xác minh của 3 sỹ quan công an trong vụ tấn công đẫm máu ở xã vào ngày 9/1 và kết tội 23 người còn lại về tội danh “chống người thi hành công vụ.” Phiên tòa dự kiến kéo dài 10 ngày làm việc, kết thúc vào ngày 14 tháng 9 khi thẩm phán quyết định tuyên án tử hình đối với Lê Đình Công và Lê Đình Chức, hai con trai của ông Lê Đình Kình, nạn nhân bị công an bắn chết trong đêm 09/1, và tù chung thân đối với cháu của ông là Lê Đình Danh. Ba người khác bị tuyên án từ 12 năm đến 16 năm tù trong khi tám người khác bị kết án từ ba năm đến sáu năm tù. Có đến 15 người khác bị án treo từ 15 tháng đến năm năm. Phiên tòa xét xử không công bằng với nhiều vi phạm Bộ luật Tố tụng Hình sự của các thẩm phán, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và Công an thành phố. Liên minh châu Âu, Chính phủ Anh và một số tổ chức nhân quyền quốc tế như Theo dõi Nhân quyền (HRW) và Ân xá Quốc tế đã lên án phán quyết của tòa án. Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền cùng tổ chức Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam cũng đã ra thông cáo chung kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho tất cả 29 dân oan đất Đồng Tâm và bỏ cáo buộc họ cũng như tiến hành một cuộc điều tra khách quan và công bằng để đưa những kẻ chịu trách nhiệm về vụ đột kích và giết ông Kính ra tòa.
Tòa án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã giữ nguyên bản án 11 năm tù giam và 5 năm quản chế đối với nhà bảo vệ nhân quyền Nguyễn Năng Tĩnh về tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước” của Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An trong phiên xử sơ thẩm vào giữa tháng 11 năm ngoái.
Cùng với việc kết tội các nhà hoạt động không có bằng chứng rõ ràng về các điều khoản gây tranh cãi trong phần An ninh Quốc gia của Bộ luật Hình sự bằng các phiên tòa ngắn ngủi không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về một phiên tòa công bằng, chế độ cộng sản còn áp dụng các hình phạt tù kéo dài, khắc nghiệt hơn các bản án trong các vụ án chính trị một thập kỷ trước đây. Ông Nguyễn Trung Linh bị kết án 12 năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước.” Trong hai năm qua, nhiều nhà hoạt động khác đã bị kết án từ năm đến tám năm tù cho cùng tội danh. Một thập kỷ trước, các nhà hoạt động bị kết án cùng tội danh này chỉ bị phạt tù từ ba đến bốn năm.
Năm ngoái, Việt Nam đã kết án ông Lê Đình Lượng 20 năm tù về tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chế độ.” Năm nay, hai ông Sùng A Sính và Lầu A Lềnh người dân tộc Mông bị tuyên án chung thân về cùng tội danh này.
Ngược đãi trong tù
Bộ Công an Việt Nam tiếp tục chính sách giam giữ các tù nhân, đặc biệt là tù nhân lương tâm, trong điều kiện sống khắc nghiệt để trừng phạt họ vì những hoạt động bất bạo động nhưng có hại cho chế độ cộng sản nhằm làm suy sụp tinh thần của họ. Cùng với việc đưa tù nhân lương tâm đến các trại giam xa gia đình, giám thị trại giam và trại tạm giam thường áp dụng các biện pháp tâm lý khác để làm cho cuộc sống của những người hoạt động trở nên khó khăn hơn, chẳng hạn như từ chối họ quyền được gặp mặt thường xuyên với gia đình. và nhận thêm thức ăn và thuốc từ người thân của họ, đưa họ vào xà lim hoặc khu vực biệt lập, hoặc buộc họ làm việc nặng nhọc mà không có dụng cụ bảo hộ thích hợp. Bên cạnh đó, các biện pháp này cũng gây thêm chấn thương tâm lý và tài chính cho các thành viên trong gia đình.
Vào giữa tháng 4, cảnh sát đã hành hung các tù nhân lương tâm Ngô Văn Dũng và Lê Quý Lộc tại trại tạm giam Phan Đăng Lưu, thuộc Công an thành phố Hồ Chí Minh. Do vết thương quá nặng bởi vụ đánh đập này, cả hai phải nhập viện điều trị trong một tuần. Sau đó, ông Lộc được đưa trở lại cơ sở còn ông Dũng được chuyển đến cơ sở tạm giam Chí Hòa cũng thuộc thẩm quyền của Công an thành phố.
Vào đầu tháng 1, giám thị và quản giáo tại Trại giam Ba Sao ở tỉnh Hà Nam đã giam Phan Kim Khánh và Nguyễn Viết Dũng trong phòng biệt giam trong nhiều tuần để trả thù vì họ phản đối việc đối xử vô nhân đạo trong tù. Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Báo cáo viên Đặc biệt về Tra tấn cho rằng biệt giam kéo dài có thể bị coi là tra tấn.
Nhà hoạt động Đoàn Thị Hồng nói với gia đình rằng cô bị giam giữ trong điều kiện sống khắc nghiệt trong một cơ sở tạm giữ thuộc thẩm quyền của Công an Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn điều tra cũng như trong thời gian tạm giam trước khi xét xử.
Nhiều dân oan Đồng Tâm cho rằng họ bị tra tấn trong quá trình thẩm vấn trong trại tạm giam trước khi xét xử. Ngoài ra, sáu người trong số họ bị buộc phải khai nhận sai và cảnh sát Hà Nội đã quay phim và phát sóng trên kênh truyền hình quốc gia VTV, theo một báo cáo có tiêu đề “Cưỡng bức trước máy quay: cách Việt Nam buộc những người bị bắt giữ tự thú trên TV” do tổ chức Safeguard Defenders thực hiện.
Năm 2020, do sự ngược đãi của cai ngục, các tù nhân lương tâm ở nhiều trại giam, bao gồm Trại giam An Điềm tỉnh Quảng Nam, Trại giam Ba Sao tỉnh Hà Nam, Trại giam Gia Trung, tỉnh Tây Nguyên. Lai, v.v … đã thực hiện nhiều cuộc tuyệt thực kéo dài để yêu cầu được đối xử tốt hơn và chấm dứt sự tra tấn về tinh thần và thể chất.
Từ tháng 3 đến tháng 12, khi COVID-19 đang lan rộng trên toàn quốc, các trại giam và cơ sở tạm giữ của Việt Nam đã không cho phép gia đình và thân nhân của các tù nhân lương tâm gặp họ hoặc cung cấp thêm thực phẩm và thuốc men cho họ, cũng như các mặt hàng thiết yếu khác. Trước những lo ngại về phẩm cấp thực phẩm, sức khỏe và vệ sinh thấp trong các nhà tù, cuộc sống của các tù nhân lương tâm thường bị đe dọa nghiêm trọng.
Vào ngày 23/11, nhà vận động dân chủ nổi tiếng Trần Huỳnh Duy Thức đã bắt đầu tuyệt thực trong khi chấp hành án tù 16 năm tại Trại giam số 6, tỉnh Nghệ An để yêu cầu đươc trả tự do. Theo các luật sư của ông, ông phải được hưởng lợi từ những sửa đổi của Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực vào năm 2018. Theo Điều 7 và Điều 109 của bộ luật mới, tội “Chuẩn bị phạm tội [hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. ] bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Đây là cơ sở để ông Trần Huỳnh Duy Thức kháng cáo từ tháng 7/2018 yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do cho ông sau khi ông liên tục chấp hành án từ năm 2010. Chế độ cộng sản Việt Nam vẫn im lặng sau hơn một tháng ông nhịn ăn bất chấp những lời kêu gọi của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và trong nước đòi trả tự do cho ông.
Theo Luật Thi hành án hình sự của Việt Nam có hiệu lực vào năm 2019, những người bị giam trong các trại giam vàtrại tạm giam trên toàn quốc được hưởng chế độ ăn uống tương đối tốt. Tuy nhiên, trên thực tế, phần thức ăn họ nhận được không đủ để duy trì sức khỏe nên gia đình họ phải cung cấp thêm thực phẩm và đồ dùng theo định kỳ, thường là hai lần một tháng. Đôi khi trong đại dịch Covid-19, nhiều trại giam và trại tạm giam từ chối cho phép gia đình gửi thức ăn cho họ mà buộc họ gửi tiền để họ có thể mua tại căng tin của cơ sở với giá cao hơn nhiều so với giá thị trường. Nó đã gây ra khó khăn cho các gia đình tù nhân lương tâm do thực tế là các nhà hoạt động và gia đình thường bị nhà cầm quyền địa phương liên tục hạch sách và tìm mọi cách ngăn chặn các hoạt động kinh tế của họ.
Cùng với việc đàn áp tù nhân lương tâm, chính quyền một số địa phương còn sách nhiễu gia đình họ. Sau khi bắt cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu và hai con trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tú với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” vào cuối tháng Sáu, công an Hà Nội và Hòa Bình liên tục uy hiếp gia đình bà, triệu tập chồng bà Trịnh BáKhiêm, cũng là một cựu tù nhân lương tâm và vợ ông Phương là bà Đỗ Thị Thu đến đồn công an để thẩm vấn về hoạt động của những người bị giam giữ.
Nhiều cựu tù nhân lương tâm nói rằng hầu hết các tù nhân lương tâm là người dân tộc thiểu số không có người thân đến thăm và cuộc sống của họ trong nhà tù rất khó khăn vì họ chỉ dựa vào nguồn thức ăn cung cấp của nhà tù.
Mãn hạn tù năm 2020
Vào năm 2020, 38 tù nhân lương tâm đã được trả tự do hoặc dự kiến sẽ mãn hạn tù. Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền chỉ có thông tin về mãn hạn tù của một số trường hợp. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đưa tên họ ra khỏi danh sách tù nhân lương tâm.
Vào cuối tháng Hai, người theo đạo Tin lành người Thượng Y Ngun Knul đã được trả tự do sau khi ngồi tù 16 năm. Ông bị bắt vào năm 2004 và sau đó bị kết án 18 năm tù với tội danh “phá hoại chính sách đoàn kết.” Ông bị nhiều bệnh hiểm nghèo do bị đối xử vô nhân đạo trong một thời gian dài trong các nhà tù khác nhau và chết vài tháng sau khi được trả tự do.
Ngày 18/9, mục sư Tin lành A Dao đã được trả tự do sau 4 năm tù giam nhờ lời kêu gọi của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ và một số dân biểu Hoa Kỳ. Ông bị bắt vào tháng 8 năm 2016 và bị kết án 5 năm tù sau khi tham gia một hội nghị tôn giáo khu vực ở Đông Timor.
Vào tháng 1, nhà chức trách Việt Nam đã quyết định đình chỉ việc thi hành án tù của tù nhân lương tâm Ngô Hào trong một năm, cho phép ông trở về nhà để điều trị bệnh. Người tù chính trị 72 tuổi đã được trại giam An Điềm, tỉnh Quảng Nam cho phép về nhà vào ngày 9/1 sau bảy năm bị giam giữ với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chế độ.” Ông được tạm hoãn thi hành án sau nhiều năm đề nghị vì sức khỏe của ông đã xấu đi một thời gian dài. Có lẽ họ không muốn mạo hiểm với trường hợp của ông sau cái chết của hai tù nhân lương tâm Đoàn Đình Nam và Đào Quang Thực vào năm 2019. Hiện chưa rõ ông Ngô Hào có phải quay lại trại giam để chấp hành nốt án phạt tù 15 năm hay không hay không.
Tù nhân lương tâm Huỳnh Đức Thịnh được trả tự do vào giữa tháng 12 sau khi nhập viện nhiều tuần để điều trị đột quỵ do xuất huyết mà ông phải chịu đựng trong hoàn cảnh không rõ ràng chỉ vài tuần trước khi mãn hạn. Công an thành phố HCM đã duy trì sự theo dõi chặt chẽ kể cả khi ông đang trong tình trạng nguy kịch trong bệnh viện cho đến khi ôngđược mãn án một năm tù. Điều đáng chú ý là con trai ông Huỳnh Đức Thanh Bình bị kết tội lật đổ và bị kết án 10 năm tù vào năm ngoái.
Cũng trong trường hợp tương tự với cha và con trai, người Mỹ gốc Việt Michael Minh Phuong Nguyen, người bị kết án 12 năm vì tội lật đổ, đã được trả tự do vào cuối tháng 10 sau hơn hai năm ở tù tại Việt Nam. Anh bị trục xuất đến California để đoàn tụ với gia đình. Anh ta cáo buộc lực lượng an ninh của Việt Nam bắt cóc anh ta và những người bạn của anh ta là Huỳnh Đức Thanh Bình và Trần Long Phi vào ngày 7 tháng 7 năm 2018 và thẩm vấn anh ta nhiều giờ một ngày trong thời gian tạm giam trước khi xét xử.
Vào đầu tháng 1, nhà cầm quyền Việt Nam đã trả tự do cho Trần Thị Nga, người bị bắt vào tháng 1 năm 2017 và sau đó bị kết án 9 năm với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước,” nhưng buộc cô phải sống lưu vong ở Mỹ cùng với chồng và hai con.
Công dân Úc gốc Việt Châu Văn Khảm không có may mắn như vậy. Vào tháng 11 năm ngoái, nhà hoạt động dân chủ 70 tuổi này đã bị kết tội khủng bố và bị kết án 12 năm tù, nhưng ông vẫn đang thi hành án tù mặc dù nhiều chính trị gia Úc và các tổ chức nhân quyền đã kêu gọi tự do cho ông.
Vào cuối tháng Bảy, ông Lê Minh Thể được trả tự do, ba tháng trước khi mãn hạn hai năm tù. Có khả năng là bác sĩ Hồ Văn Hải (blogger Hồ Hải) cũng đã được trả tự do sớm hơn nhiều tháng so với án 4 năm tù sau khi bị bắt và bị buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” vào tháng 11 năm 2016.
Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền lo ngại rằng nhà cầm quyền Hà Nội vẫn đang giam giữ blogger Lê Anh Hùng trong một cơ sở tâm thần địa phương sau khi điều tra ông về các cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” mà không có bất kỳ quy trình xét xử nào. Nhà hoạt động này bị cưỡng bức dùng thuốc, điều có thể cấu thành tra tấn theo luật quốc tế
==========
Thuật ngữ tù nhân lương tâm (POC) được Peter Benenson đưa ra vào những năm 1960. Khái niệm này đề cập đến bất kỳ cá nhân nào bị giam cầm vì niềm tin chính trị, tôn giáo hoặc vì lương tâm, nguồn gốc dân tộc, giới tính, màu da, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tình trạng kinh tế, sinh sản, khuynh hướng tình dục hoặc tình trạng khác mà không sử dụng bạo lực hoặc ủng hộ bạo lực hoặc thù hận.
Tổ chức Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders– DTD) là tổ chức phi lợi nhuận độc lập ở Việt Nam, hoạt động nhằm thúc đẩy quyền con người và quyền công dân. Tổ chức này có một mạng lưới với hàng trăm người bảo vệ nhân quyền trên toàn quốc, những người báo cáo tình trạng vi phạm nhân quyền trong khu vực của họ.
============================
Phụ lục 1: Danh sách người hoạt động, Facebooker và dân oan Đồng Tâm bị bắt trong năm 2020
TT |
Tên |
Năm sinh |
Nơi ở |
Ngày bị bắt |
Cáo buộc |
Xuất thân |
1 |
Lê Đình Công |
1964 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
land petitioner |
2 |
Lê Đình Chức |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
land petitioner |
3 |
Bùi Viết Hiếu |
1943 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
land petitioner |
4 |
Nguyễn Văn Tuyến |
1974 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
land petitioner |
5 |
Lê Đình Doanh |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
land petitioner |
6 |
Nguyễn Quốc Tiến |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
land petitioner |
7 |
Nguyễn Văn Quân |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
8 |
Lê Đình Uy |
1993 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
9 |
Lê Đình Quang |
1984 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
10 |
Bùi Thị Nối |
1958 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
11 |
Bùi Thị Đực |
1957 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
12 |
Nguyễn Thị Bét |
1961 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
13 |
Nguyễn Thị Lụa |
1956 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
14 |
Trần Thị La |
1978 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
15 |
Bùi Văn Tiến |
1979 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
16 |
Nguyễn Văn Duệ |
1962 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
17 |
Lê Đình Quân |
1976 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
18 |
Bùi Văn Niên |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
19 |
Bùi Văn Tuấn |
1991 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
20 |
Trịnh Văn Hải |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
21 |
Nguyễn Xuân Điều |
1952 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
22 |
Mai Thị Phần |
1963 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
23 |
Đào Thị Kim |
1983 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
24 |
Lê Thị Loan |
1966 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
25 |
Nguyễn Văn Trung |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
26 |
Lê Đình Hiến |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
27 |
Bùi Viết Tiến |
2000 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
28 |
Nguyễn Thị Dung |
1963 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
29 |
Trần Thị Phượng |
1984 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
land petitioner |
30 |
Đinh Văn Phú |
1973 |
Dak Nong |
9-Jan-20 |
117 |
Facebooker |
31 |
Chung Hoàng Chương |
1977 |
Cần Thơ |
11-Jan-20 |
331 |
Facebooker |
32 |
Sùng A Sính |
1983 |
Điện Biên |
|
109 |
religious freedom |
33 |
Lầu A Lềnh |
1970 |
Điện Biên |
|
109 |
religious freedom |
34 |
Jư |
1964 |
Gia Lai |
19-Mar-20 |
116? |
religious activist |
35 |
Lup |
1972 |
Gia Lai |
19-Mar-20 |
116? |
religious activist |
36 |
Kưnh |
1992 |
Gia Lai |
19-Mar-20 |
116? |
religious activist |
37 |
Mã Phùng Ngọc Phú |
1992 |
Cần Thơ |
10-Apr-20 |
331 |
Facebooker |
38 |
Đinh Thị Thu Thuỷ |
1982 |
Hậu giang |
18-Apr-20 |
117 |
independent activist |
39 |
Trần Đức Thạch |
1952 |
Nghệ An |
23-Apr-20 |
109 |
blogger |
40 |
Nguyễn Tường Thuỵ |
1952 |
Hanoi |
23-May-20 |
117 |
journalist |
41 |
Phạm Thành |
1952 |
Hà Nội |
21-May-20 |
117 |
blogger |
42 |
Nguyễn Văn Lâm |
1970 |
Nghệ An |
11-Jun-20 |
117 |
Facebooker |
43 |
Nguyễn Đăng Thương |
1957 |
Saigon |
13-Jun-20 |
331 |
Facebooker |
44 |
Trần Trọng Khải |
|
HCM City |
|
331 |
Facebooker |
45 |
Huỳnh Anh Khoa |
1982 |
Saigon |
13-Jun-20 |
331 |
Facebooker |
46 |
Le Huu Minh Tuan |
1989 |
Quang Nam |
12-Jun-20 |
117 |
editor |
47 |
Nguyễn Thị Cẩm Thuý |
1976 |
Khánh Hoà |
24-Jun-20 |
117 |
Facebooker |
48 |
Vũ Tiến Chi |
1966 |
Lâm Đồng |
24-Jun-20 |
117 |
Facebooker |
49 |
Trịnh Bá Tư |
1989 |
Hanoi |
24-Jun-20 |
117 |
land rights activist |
50 |
Trịnh Bá Phương |
1985 |
Hanoi |
24-Jun-20 |
117 |
land rights activist |
51 |
Nguyễn Thị Tâm |
1972 |
Hanoi |
24-Jun-20 |
117 |
land rights activist |
52 |
Cấn Thị Thêu |
1962 |
Hanoi |
24-Jun-20 |
117 |
land rights activist |
53 |
Phan Thị Thanh Hồng |
1969 |
HCMC |
21-Jun-20 |
318 |
Facebooker |
54 |
Nguyen Quang Vinh |
1981 |
Nghe An |
27-Jul-20 |
331 |
Facebooker |
55 |
Tran Thi Tuyet Dieu |
1988 |
Phu Yen |
21-Aug-20 |
117 |
blogger |
56 |
Lê Văn Hải |
1966 |
Bình Đinh |
18-Sep-20 |
331 |
Facebooker |
57 |
Quách Duy |
1982 |
HCMC |
18-Sep-20 |
331 |
Facebooker |
58 |
Hoàng Minh Tuấn |
1980 |
Dak Lak |
25-Sep-20 |
156 |
anti-corruption activist |
59 |
Phạm Đình Quý |
1981 |
Bình Thuận |
25-Sep-20 |
156 |
anti-corruption activist |
60 |
Phạm Đoan Trang |
1978 |
Hanoi |
6-Oct-20 |
117 |
blogger |
61 |
Nguyễn Quang Khải |
1969 |
Đồng Nai |
20-Oct-20 |
337 |
Facebooker |
62 |
Trương Châu Hữu Danh |
1982 |
Cần Thơ |
16-Dec-20 |
331 |
Facebooker |
63 |
Lê Thị Bình |
1976 |
Cần Thơ |
22-Dec-20 |
331 |
Activist |
64 |
Cao Văn Dũng |
1968 |
Quảng Ngãi |
27-Nov-20 |
117 |
Facebooker |
65 |
Nguyễn Hữu Mỹ |
1973 |
Quảng Ngãi |
|
331 |
Facebooker |
66 |
Trần Văn Tứ |
1992 |
Quảng Ngãi |
|
331 |
Facebooker |
Phụ lục 2: Danh sách người hoạt động, Facebooker và dân oan Đồng Tâm bị kết án trong năm 2020
TT |
Tên |
Năm sinh |
Quê quán |
Ngày bị bắt |
Tội danh |
Ngày xử |
Án tù |
Án treo/quản chế |
1 |
Sùng A Sính |
1983 |
Điện Biên |
|
109 |
18-Mar-20 |
life impr. |
|
2 |
Lầu A Lềnh |
1970 |
Điện Biên |
|
109 |
18-Mar-20 |
life impr. |
|
3 |
Nguyen Duc Quoc Vuong |
1991 |
Lam Dong |
23-Sep-19 |
117 |
7-Jul-20 |
8 |
3 |
4 |
Nguyễn Văn Nghiêm |
1963 |
Hoà bình |
5-Nov-19 |
117 |
23-Jun-20 |
6 |
|
5 |
Mã Phùng Ngọc Phú |
1992 |
Cần Thơ |
10-Apr-20 |
331 |
11-May-20 |
0.75 |
|
6 |
Phan Công Hải |
1996 |
Nghệ An |
|
117 |
28-Apr-20 |
5 |
3 |
7 |
Đặng Thị Huệ |
1981 |
Thái Bình |
16/10/2019 |
318 |
8-May-20 |
3.25 |
|
8 |
Bùi Mạnh Tiến |
|
Thái Bình |
16/10/2019 |
318 |
8-May-20 |
1.25 |
|
9 |
Chung Hoàng Chương |
1977 |
Cần Thơ |
11-Jan-20 |
331 |
27-Apr-20 |
1.5 |
|
10 |
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (f) |
1976 |
HCM City |
O3/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
8 |
3 |
11 |
Hồ Văn Cương |
N/A |
HCM City |
O4/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
4.5 |
2 |
12 |
Ngô Văn Dũng |
1969 |
Dak Lak |
O4/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
5 |
2 |
13 |
Đoàn Thị Hồng (f) |
1983 |
Binh Thuan |
O2/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
2.5 |
2 |
14 |
Lê Quý Lộc |
1976 |
HCM City |
11/O6/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
5 |
3 |
15 |
Hoàng Thị Thu Vang (f) |
1966 |
HCM City |
O3/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
7 |
3 |
16 |
Đỗ Thế Hoá |
1968 |
HCM City |
O2/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
5 |
3 |
17 |
Trần Thanh Phương |
1975 |
HCM City |
O2/9/2018 |
118 |
31-Jul-20 |
3.5 |
2 |
18 |
Nguyễn Trung Lĩnh |
1967 |
Hanoi |
27-May-18 |
117 |
1-Jul-20 |
12 |
|
19 |
Trần Đức Thạch |
1952 |
Nghệ An |
23-Apr-20 |
109 |
15-Dec-20 |
12 |
3 |
20 |
Huỳnh Anh Khoa |
1982 |
HCM City |
13-Jun-20 |
331 |
|
1.25 |
|
21 |
Nguyễn Đăng Thương |
1957 |
HCM City |
13-Jun-20 |
331 |
|
1.5 |
|
22 |
Tran Trọng Khải |
|
HCM City |
|
331 |
|
1 |
|
23 |
Lê Đình Công |
1964 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
Sept 7-14, 2020 |
death |
|
24 |
Lê Đình Chức |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
Sept 7-14, 2020 |
death |
|
25 |
Bùi Viết Hiếu |
1943 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
Sept 7-14, 2020 |
16 |
|
26 |
Nguyễn Văn Tuyến |
1974 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
Sept 7-14, 2020 |
12 |
|
27 |
Lê Đình Doanh |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
Sept 7-14, 2020 |
life impr. |
|
28 |
Nguyễn Quốc Tiến |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
123 |
Sept 7-14, 2020 |
13 |
|
29 |
Nguyễn Văn Quân |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
5 |
|
30 |
Lê Đình Uy |
1993 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
5 |
|
31 |
Lê Đình Quang |
1984 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
5 |
|
32 |
Bùi Thị Nối |
1958 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
6 |
|
33 |
Bùi Thị Đực |
1957 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
3 |
34 |
Nguyễn Thị Bét |
1961 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
3 |
35 |
Nguyễn Thị Lụa |
1956 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
3 |
36 |
Trần Thị La |
1978 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
3 |
37 |
Bùi Văn Tiến |
1979 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
5 |
|
38 |
Nguyễn Văn Duệ |
1962 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
3 |
|
39 |
Lê Đình Quân |
1976 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
5 |
40 |
Bùi Văn Niên |
1980 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
3 |
41 |
Bùi Văn Tuấn |
1991 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
3 |
|
42 |
Trịnh Văn Hải |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
3 |
|
43 |
Nguyễn Xuân Điều |
1952 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
3 |
44 |
Mai Thị Phần |
1963 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
2.5 |
45 |
Đào Thị Kim |
1983 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
2 |
46 |
Lê Thị Loan |
1966 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
2.5 |
47 |
Nguyễn Văn Trung |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
1.5 |
48 |
Lê Đình Hiến |
1988 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
1.25O |
49 |
Bùi Viết Tiến |
2000 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
1.25O |
50 |
Nguyễn Thị Dung |
1963 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
1.25O |
51 |
Trần Thị Phượng |
1984 |
Dong Tam, Hanoi |
9-Jan-20 |
330 |
Sept 7-14, 2020 |
|
1.25O |
52 |
Nguyễn Hữu Mỹ |
1973 |
Quảng Ngãi |
|
331 |
|
1 |
|
Phụ lục 3: Danh sách tù nhân lương tâm được trả tự do năm 2020
TT |
Tên |
Năm sinh |
Ngày bị bắt |
Tội danh |
Án tù (năm) |
Ngày được trả tự do |
1 |
Trần Thị Nga |
1977 |
21-Jan-17 |
88 |
9 |
10-Jan-20 |
2 |
Quách Nguyễn Anh Khoa |
|
|
331 |
0.5 |
|
3 |
Pastor Y Ngun Knul |
1968 |
29/O4/2004 |
87 |
18 |
29-Apr-20 |
4 |
Huỳnh Đức Thịnh |
1952 |
O8/7/2018 |
390 |
1 |
19-Dec-20 |
5 |
Ngô Hào |
1948 |
O2/2013 |
79 (109) |
15 |
January |
6 |
Phạm Thị Bích Ngọc (f) |
1994 |
16/O2/2017 |
88 |
3 |
February |
7 |
Pham Van Trong |
1994 |
30/O4/2017 |
88 |
3 |
30-Apr-20 |
8 |
Nguyen Thanh Binh |
1994 |
30/O4/2017 |
88 |
3 |
30-Apr-20 |
9 |
Phạm Xuân Hào |
1965 |
|
331 |
1 |
|
10 |
Nguyễn Văn Nghĩa |
1989 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
10-Jun-20 |
11 |
Nguyễn Đình Vũ |
1977 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10-Jun-20 |
12 |
Trần Thị Ngọc |
1968 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10-Jun-20 |
13 |
Nguyen Van Meo |
1970 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
10-Jun-20 |
14 |
Nguyen Minh Kha |
2000 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
10-Jun-20 |
15 |
Trương Ngọc Hiền |
1997 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
10-Jun-20 |
16 |
Venerable Thach Thuol |
1985 |
20/5/2013 |
91 |
6 |
May-20 |
17 |
Hồ Văn Hải |
1957 |
O2/11/2016 |
88 |
4 |
Late June |
18 |
Lê Minh Thể |
1963 |
10/1O/2018 |
331 |
2 |
10-Jul-20 |
19 |
Nguyễn Đình Vũ |
1977 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
Expected to be in ẻly September |
20 |
Trần Thị Ngọc |
1968 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
Expected to be in ẻly September |
21 |
Đặng Văn Tuấn |
1985 |
1O/6/2018 |
318 |
2.25 |
Expected to be in ẻly September |
22 |
Lê Trọng Nghĩa |
1987 |
1O/6/2018 |
318 |
2.25 |
Expected to be in ẻly September |
23 |
Trần Quang Hải |
1991 |
5-Mar-19 |
318 |
1.5 |
Expected to be in ẻly September |
24 |
Đoàn Khánh Vinh Quang |
1976 |
1O/6/2018 |
331 |
2.25 |
Expected to be in ẻly September |
25 |
Pastor A Dao |
|
August 2O16 |
|
5 |
September 18, 2O20 |
26 |
Ngô Đức Duyên |
1998 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
27 |
Phạm Thanh Nam |
1990 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
28 |
Lê Văn Liêm |
1996 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
29 |
Nguyễn Ngọc Sang |
1996 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
30 |
Phạm Thị Thu Thuỷ (f) |
1974 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
31 |
Võ Văn Trụ |
1982 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
32 |
Trần Thị Tiến (f) |
1960 |
O3/8/2017 |
318 |
3 |
Espected to be released in August |
33 |
Lê Thị Hồng Hạnh (f) |
1979 |
13/11/2017 |
245 |
3 |
Espected to be released in November |
34 |
Nguyễn Văn Minh |
1966 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
35 |
Nguyễn Văn Hùng |
1992 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
36 |
Nguyễn Phương Đông |
1994 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
37 |
Nguyễn Văn Mạnh |
1994 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 |
Espected to be released in November |
38 |
Michael Minh Phuong Nguyen |
|
7-Jul-18 |
109 |
12 |
Late October |
Phụ lục 4: Danh sách tù nhân lương tâm còn bị giam giữ (tính đến 31/12/2020)
TT |
Tên |
Năm sinh |
Ngày bị bắt |
Cáo buộc |
Mức án |
Cơ sở giam giữ |
1 |
Nguyễn Quang Khải |
1969 |
20-Oct-20 |
337 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Đồng Nai |
2 |
Phạm Đình Quý |
1981 |
25-Sep-20 |
156 |
Tạm giam |
Dak Lak temporary detention center |
3 |
Hoàng Minh Tuấn |
1980 |
25-Sep-20 |
156 |
Tạm giam |
Dak Lak temporary detention center |
4 |
Phan Thị Thanh Hồng |
1969 |
21/6/2020 |
318 |
Tạm giam |
Trại tam giam CA thành phố HCM |
5 |
Phạm Đoan Trang |
1978 |
6-Oct-20 |
117 |
Tạm giam |
Hanoi temporary detention center |
6 |
Trần Thị Tuyết Diệu |
1988 |
21/8/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Phú Yên |
7 |
Nguyễn Thị Cẩm Thuý |
1976 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Khánh Hoà |
8 |
Vũ Tiến Chi |
1966 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Lâm Đồng |
9 |
Trịnh Bá Tư |
1989 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Hoà Bình |
10 |
Trịnh Bá Phương |
1985 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA thành phố Hà Nội |
11 |
Nguyễn Thị Tâm |
1982 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA thành phố Hà Nội |
12 |
Cấn Thị Thêu |
1962 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Hoà Bình |
13 |
Đinh Thị Thu Thuỷ |
1982 |
18/4/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Hậu Giang |
14 |
Phạm Thành |
1952 |
21/5/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam Hoả Lò, Hà Nội |
15 |
Cao Văn Dũng |
1968 |
27/11/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Quảng Ngãi |
16 |
Trần Văn Tú |
1992 |
|
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Quảng Ngãi |
17 |
Lê Thị Bình |
1976 |
22/12/2020 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA thành phố Cần Thơ |
18 |
Trương Châu Hữu Danh |
1982 |
16/12/2020 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA thành phố Cần Thơ |
19 |
Lê Văn Hải |
1966 |
18/9/2020 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Bình Định |
20 |
Quách Duy |
1982 |
18-Sep-20 |
331 |
Tạm giam |
Trại tam giam CA thành phố HCM |
21 |
Jư |
1964 |
19/3/2020 |
|
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
22 |
Lup |
1972 |
19/3/2020 |
|
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
23 |
Kưnh |
1992 |
19/3/2020 |
|
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
24 |
Đinh Văn Phú |
1973 |
O9/1/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Dak Nong |
25 |
Nguyễn Văn Quang |
1987 |
12/O6/2018 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Thanh Hoá |
26 |
Trịnh Viết Bảng |
1959 |
13/5/2019 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA tỉnh Bắc Ninh |
27 |
Nguyễn Duy Sơn |
1981 |
O8/5/2018 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Thanh Hoá |
28 |
Nguyễn Văn Trường |
1976 |
O9/2/2018 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Thái Nguyên |
29 |
Y Pum Nie |
1964 |
10/O4/2018 |
116 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA HCM |
30 |
Nguyễn Bá Mạnh |
1987 |
20/3/2019 |
288 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA tỉnh Bắc Ninh |
31 |
Nguyễn Văn Nhanh |
1992 |
|
155 |
1 năm |
Trại tạm giam huyện Trảng Bom, Đồng Nai |
32 |
Lê Đình Công |
1964 |
9/1/20 |
123 |
death |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
33 |
Lê Đình Chức |
1980 |
9/1/20 |
123 |
death |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
34 |
Bùi Viết Hiếu |
1943 |
9/1/20 |
123 |
16 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
35 |
Nguyễn Văn Tuyến |
1974 |
9/1/20 |
123 |
12 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
36 |
Lê Đình Doanh |
1988 |
9/1/20 |
123 |
life impr. |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
37 |
Nguyễn Quốc Tiến |
1980 |
9/1/20 |
123 |
13 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
38 |
Nguyễn Văn Quân |
1980 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
39 |
Lê Đình Uy |
1993 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
40 |
Lê Đình Quang |
1984 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
41 |
Bùi Thị Nối |
1958 |
9/1/20 |
330 |
6 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
42 |
Bùi Văn Tiến |
1979 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
43 |
Nguyễn Văn Duệ |
1962 |
9/1/20 |
330 |
3 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
44 |
Bùi Văn Tuấn |
1991 |
9/1/20 |
330 |
3 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
45 |
Trịnh Văn Hải |
1988 |
9/1/20 |
330 |
3 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
46 |
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh |
1976 |
O3/9/2018 |
118 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
47 |
Hồ Đình Cương |
N/A |
O4/9/2018 |
118 |
4.5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
48 |
Ngô Văn Dũng |
1969 |
O4/9/2018 |
118 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
49 |
Đoàn Thị Hồng |
1983 |
O2/9/2018 |
118 |
2.5 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
50 |
Lê Quý Lộc |
1976 |
11/O6/2018 |
118 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
51 |
Hoàng Thị Thu Vang |
1966 |
O3/9/2018 |
118 |
7 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
52 |
Đỗ Thế Hoá |
1968 |
O2/9/2018 |
118 |
5 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
53 |
Trần Thanh Phương |
1975 |
O2/9/2018 |
118 |
3.5 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
54 |
Châu Văn Khảm |
1949 |
13/1/2019 |
113 |
12 năm |
Trại giam Thủ Đức, tỉnh Bình Thuận |
55 |
Nguyễn Văn Viễn |
1971 |
13/1/2019 |
113 |
11 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
56 |
Trần Văn Quyến |
1999 |
23/1/2019 |
113 |
10 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
57 |
Đoàn Viết Hoan |
1984 |
25/4/2019 |
118 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
58 |
Nguyễn Đình Khue |
1978 |
25/4/2019 |
118 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
59 |
Võ Thường Trung |
1977 |
25/4/2019 |
118 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
60 |
Ngô Xuân Thành |
1970 |
25/4/2019 |
118 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
61 |
Trương Hữu Lộc |
1963 |
11/O6/2018 |
118 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
62 |
Lê Hữu Minh Tuấn |
1989 |
12-Jun-20 |
117 |
11 năm |
Trại tạm giam Chí Hoà, HCM |
63 |
Nguyễn Tường Thuỵ |
1950 |
23/5/2020 |
117 |
11 năm |
Trại tạm giam Chí Hoà, HCM |
64 |
Phạm Chí Dũng |
1966 |
21/11/2019 |
117 |
15 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
65 |
Nguyễn Trung Lĩnh |
1967 |
27/5/2018 |
117 |
12 năm |
Trại tạm giam CA thành phố Hà Nội |
66 |
Nguyễn Quốc Đức Vượng |
1991 |
23/9/2019 |
117 |
8 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
67 |
Nguyễn Văn Nghiêm |
1963 |
O5/11/2019 |
117 |
6 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
68 |
Phan Công Hải |
1996 |
19/11/2019 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam Nghi Kim- Nghệ An |
69 |
Lê Văn Phương |
1990 |
26-Oct-18 |
117 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
70 |
Trần Thanh Giang |
1971 |
23/4/2019 |
117 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA An Giang |
71 |
Huỳnh Minh Tâm |
1979 |
26/1/2019 |
117 |
9 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
72 |
Huỳnh Thị Tố Nga |
1983 |
28/1/2019 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
73 |
Nguyễn Chí Vững |
1981 |
23/4/2019 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam của CA Bạc Liêu |
74 |
Phạm Văn Điệp |
1965 |
29/6/2019 |
117 |
9 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Thanh Hoá |
75 |
Nguyễn Năng Tĩnh |
1976 |
29/5/2019 |
117 |
11 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
76 |
Nguyễn Văn Phước |
1979 |
10/12/2O18 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam CA tỉnh An Giang |
77 |
Nguyễn Ngọc Ánh |
1980 |
30/O8/2018 |
117 |
8 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
78 |
Huỳnh Trương Ca |
1971 |
O4/9/2018 |
117 |
5.5 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
79 |
Dương Thị Lanh |
1983 |
28/1/2019 |
117 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA Dak Nong |
80 |
Huỳnh Đắc Tuý |
1976 |
22/2/2019 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Quảng Ngãi |
81 |
Nguyễn Văn Công Em |
1971 |
28/2/2019 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA Bến Tre |
82 |
Vũ Thị Dung |
1965 |
13/10/2018 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
83 |
Nguyễn Thị Ngọc Sương |
1968 |
13/10/2018 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
84 |
Nguyễn Đình Thành |
1991 |
O8/6/2018 |
117 |
7 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Dương |
85 |
Nguyễn Viết Dũng |
1976 |
27/9/2017 |
88 |
6 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
86 |
Trần Hoàng Phúc |
1994 |
29/6/2017 |
88 |
6 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
87 |
Vũ Quang Thuận |
1966 |
O2/3/2017 |
88 |
8 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
88 |
Nguyễn Văn Điển |
1980 |
O2/3/2017 |
88 |
6,5 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
89 |
Phan Kim Khánh |
1983 |
21/3/2017 |
88 |
6 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
90 |
Nguyễn Văn Hoá |
1995 |
11/O1/2017 |
88 |
7 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
91 |
Bùi Hiếu Võ |
1962 |
O3/2017 |
88 |
4,5 năm |
Không rõ |
92 |
Trương Thị Thu Hằng |
1984 |
16/O2/2017 |
88 |
4 năm |
Không rõ |
93 |
Pham Long Dai |
1996 |
16/O2/2017 |
88 |
6 năm |
Không rõ |
94 |
Doan Thi Bich Thuy |
1972 |
16/O2/2017 |
88 |
5 năm |
Không rõ |
95 |
Huỳnh Thị Kim Quyên |
1979 |
30/O4/2017 |
88 |
4 năm |
Không rõ |
96 |
Nguyễn Tấn An |
1992 |
30/O4/2017 |
88 |
5 năm |
Không rõ |
97 |
Nguyễn Ngọc Quy |
1992 |
30/O4/2017 |
88 |
4 năm |
Không rõ |
98 |
Trần Long Phi |
1996 |
O7/7/2018 |
109 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
99 |
Huỳnh Đức Thanh Bình |
1996 |
O7/7/2018 |
109 |
10 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
100 |
Tạ Tấn Lộc |
1975 |
16/O2/2017 |
79 |
14 năm |
Không rõ |
101 |
Nguyen Quang Thanh |
1983 |
16/O2/2017 |
79 |
14 năm |
Không rõ |
102 |
Nguyễn Văn Nghĩa |
1977 |
16/O2/2017 |
79 |
12 năm |
Không rõ |
103 |
Nguyen Van Tuan |
1984 |
16/O2/2017 |
79 |
12 năm |
Không rõ |
104 |
Trần Đức Thạch |
1952 |
23/4/2020 |
109 |
12 năm |
Tauh tạm giam Nghi Kim- CA Nghệ An |
105 |
Từ Công Nghĩa |
1993 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
10 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
106 |
Phan Trung |
1976 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
8 năm |
Trại giam Bố Lá (Bình Dương) |
107 |
Nguyễn Quốc Hoàn |
1977 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
108 |
Nguyễn Văn Đức Độ |
1975 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
11 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
109 |
Lưu Văn Vịnh |
1967 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
15 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
110 |
Lê Đình Lượng |
1965 |
24/7/2017 |
79 (109) |
20 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
111 |
Nguyễn Văn Túc |
1974 |
O1/9/2017 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
112 |
Nguyễn Trung Trực |
1963 |
O4/8/2017 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
113 |
Nguyễn Trung Tôn |
1971 |
30/7/2017 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
114 |
Trương Minh Đức |
1960 |
30/7/2017 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
115 |
Phạm Văn Trội |
1972 |
30/7/2017 |
79 (109) |
7 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
116 |
Nguyễn Bắc Truyển |
1968 |
30/7/2017 |
79 (109) |
11 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
117 |
Trần Thị Xuân |
1976 |
17/10/2017 |
79 (109) |
9 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
118 |
Huỳnh Hữu Đạt |
1970 |
O1/2/2017 |
79 (109) |
13 năm |
Không rõ |
119 |
Trần Huỳnh Duy Thức |
1966 |
24/5/2009 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
120 |
Lê Thanh Tùng |
1968 |
15/12/2015 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
121 |
Trần Anh Kim |
1949 |
21/9/2015 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
122 |
Hồ Đức Hoà |
1974 |
O2/8/2011 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
123 |
Phạm Thị Phượng |
1945 |
O4/2010 |
79 (109) |
11 năm |
An Phuoc Prison camp in Binh Duong |
124 |
Phan Văn Thu |
1948 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
chung thân |
An Phuoc Prison camp in Binh Duong |
125 |
Lê Xuân Phúc |
1951 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
15 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
126 |
Le Trong Cu |
1966 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
127 |
Lê Duy Lộc |
1956 |
15/O2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
128 |
Nguyen Ky Lac |
1956 |
O6/2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
129 |
Đỗ Thị Hồng |
1957 |
14/O2/2012 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam Bình Phước (Bình Phước) |
130 |
Tạ Khu |
1947 |
O6/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
131 |
Trần Phi Dũng |
1984 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
132 |
Trần Quân |
1966 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
133 |
Vo Ngoc Cu |
1951 |
O6/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
134 |
Vo Thanh Le |
1955 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
135 |
Võ Tiết |
1952 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
136 |
Vương Tân Sơn |
1953 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
17 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
137 |
Doan Van Cu |
1962 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
14 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
138 |
Lê Đức Đồng |
1983 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
139 |
Lương Nhật Quang |
1987 |
O3/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
140 |
Phan Thanh Tường |
1987 |
28/O2/2012 |
79 (109) |
10 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
141 |
Nguyen Dinh |
1968 |
Không rõ |
79 (109) |
14 năm |
Không rõ |
142 |
Nguyễn Thái Bình |
1986 |
23/11/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Không rõ |
143 |
Phan Thanh Y |
1948 |
23/11/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
144 |
Tu Thien Luong |
1950 |
23/11/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
145 |
Hà Hải Ninh |
1988 |
10-Jul-05 |
109 |
|
Trại tạm giam của CA tỉnh Quảng Ninh |
146 |
Sùng A Sính |
1983 |
|
109 |
chung thân |
Trại tam giam CA tỉnh Điện Biên |
147 |
Lầu A Lềnh |
1970 |
|
109 |
chung thân |
Trại tam giam CA tỉnh Điện Biên |
148 |
Trần Hữu Mỹ |
1973 |
|
331 |
1 |
Trại tạm giam CA tỉnh Quảng Ngãi |
149 |
Trần Trọng Khải |
|
|
331 |
1 năm |
Trại tam giam CA thành phố HCM |
150 |
Nguyễn Đăng Thương |
1957 |
13/6/2020 |
331 |
1.5 năm |
Trại tạm giam, Công an Q8, Sài Gòn |
151 |
Huỳnh Anh Khoa |
1982 |
13/6/2020 |
331 |
1.25 năm |
Trại tạm giam, Công an Q8, Sài Gòn |
152 |
Mã Phùng Ngọc Phú |
1992 |
1O/4/2020 |
331 |
9 tháng |
Trại tạm giam Ninh Kiều, Cần Thơ |
153 |
Chung Hoàng Chương |
1977 |
11/O1/2020 |
331 |
18 tháng |
Trại tạm giam của CA Ninh Kiều, Cần Thơ |
154 |
Nguyễn Thị Huệ |
1968 |
O2/3/2019 |
331 |
30 tháng |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
155 |
Đỗ Công Đương |
1964 |
24/1/2018 |
318, 331 |
9 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
156 |
Hoàng Đức Bình |
1983 |
15/5/2017 |
330, 331 |
14 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
157 |
Nguyễn Văn Thiên |
1961 |
Không rõ |
258 |
4 năm |
Không rõ |
158 |
Bùi Mạnh Đồng |
1978 |
O9/2018 |
331 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Cần Thơ |
159 |
Lê Văn Sinh |
1965 |
O2/2019 |
331 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Ninh Bình |
160 |
Pastor Y Yich |
1969 |
13/5/2013 |
46, 49 and 87 |
12 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
161 |
A Gyun |
1980 |
Không rõ |
87 |
6 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
162 |
A Tik |
1952 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
163 |
Dinh Ku |
1972 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Không rõ |
164 |
A Thin |
1979 |
Không rõ |
87 |
6 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
165 |
A Ngo |
1998 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
166 |
A Yen |
1984 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
167 |
Y Hriam Kpa |
1976 |
30/7/2015 |
87 |
6.5 năm |
Dak Tan Prison camp in Dak Lak |
168 |
Y Lao Mlo |
1987 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
169 |
A Quyn |
1973 |
Không rõ |
87 |
9,5 năm |
Không rõ |
170 |
Pastor A Byo |
1967 |
Không rõ |
87 |
4 năm |
Không rõ |
171 |
Y Drim Nie |
1979 |
29/1O/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
172 |
Rah Lan Hip |
1981 |
|
116 |
7 |
Gia Lai |
173 |
A Tach (aka Ba Hloi) |
1959 |
Không rõ |
87 |
11 năm |
Không rõ |
174 |
Y Yem Hwing |
1972 |
29/1O/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
175 |
A Chi |
1983 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
176 |
A Hung |
1980 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
177 |
A Ly |
1979 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
178 |
Run |
1971 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
179 |
A Yum (aka Balk) |
1940 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
180 |
Buyk/Byuk |
1945 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
181 |
Buyk |
1963 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
182 |
John “Chinh” |
1952 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
183 |
A Hyum, (aka Ba Kol) |
1940 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
184 |
Siu Thai (aka Ama Thuong) |
1978 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
185 |
Kpuil Le |
N/A |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
186 |
Kpuil Mel |
N/A |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
187 |
Kpa Sinh |
1959 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
188 |
Rah Lan Blom |
1976 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
189 |
Rah Lan Mlih |
1966 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
190 |
Ro Mah Klit |
1946 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
191 |
Siu Brom |
1967 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
192 |
Siu Hlom |
1967 |
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
193 |
Ro Mah Pro |
1964 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
194 |
Rmah Hlach (aka Ama Blut) |
1968 |
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
195 |
Siu Koch (aka Ama Lien) |
1985 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
196 |
Noh |
1959 |
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
197 |
Ro Lan Ju (aka Ama Suit) |
1968 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
198 |
Siu Ben (aka Ama Yon) |
|
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
199 |
Kpa Binh |
1976 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
200 |
Rmah Pro |
1964 |
Không rõ |
87 |
Không rõ |
Không rõ |
201 |
Nhi (aka Ba Tiem) |
1958 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
202 |
Pinh |
1967 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
203 |
Roh |
1962 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
204 |
Y Bhom Kdoh |
1965 |
O8/10/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
205 |
Y Chon Nie |
1968 |
29/1O/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
206 |
Ksor Ruk |
1975 |
30/1O/2018 |
87 |
10 năm |
Trại tạm giam CA tỉnh Gia Lai |
207 |
Romah Daih |
|
O8/7/2005 |
87 |
10 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
208 |
Kpuih Bop |
|
O8/7/2005 |
87 |
9 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
209 |
Thao A Vang |
1986 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
210 |
Vang A Phu |
1977 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
211 |
Vang A Phu |
1988 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
212 |
Vang A De |
1990 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
213 |
Thao A Vang |
1962 |
Không rõ |
87 |
18 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
214 |
Phang A Vang |
1988 |
Không rõ |
87 |
15 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
215 |
Bùi Văn Trung |
1964 |
26/6/2017 |
245 |
6 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
216 |
Bùi Văn Thắm |
1987 |
26/6/2017 |
245, 247 |
6 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
217 |
Nguyễn Hoàng Nam |
1982 |
26/6/2017 |
245 |
4 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
218 |
Đặng Thị Huệ |
1981 |
16/10/2019 |
318 |
3.5 |
Soc Son temporary detention |
219 |
Bùi Mạnh Tiến |
|
16/10/2019 |
318 |
1.25 |
Soc Son temporary detention |
220 |
Hà Văn Nam |
1981 |
5-Mar-19 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bắc Ninh |
221 |
Nguyễn Quỳnh Phong |
1985 |
5-Mar-19 |
318 |
3 năm |
|
222 |
Lê Văn Khiển |
1990 |
5-Mar-19 |
318 |
2.5 năm |
|
223 |
Nguyễn Tuấn Quân |
1984 |
5-Mar-19 |
318 |
2 năm |
|
224 |
Vũ Văn Hà |
1990 |
5-Mar-19 |
318 |
2 năm |
|
225 |
Ngô Quang Hùng |
1993 |
5-Mar-19 |
318 |
2 năm |
|
226 |
Trần Thị Ngọc |
1961 |
O3/8/2017 |
318 |
3.5 năm |
Không rõ |
227 |
Phạm Văn Sang |
2002 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
228 |
Đỗ Văn Ngọc |
1996 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
229 |
Ngô Văn Đạt |
1989 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
230 |
Nguyễn Chương |
1995 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
231 |
Bùi Thanh Tú |
1990 |
1O/6/2018 |
318 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
232 |
Nguyễn Văn Tiến |
1998 |
1O/6/2018 |
318 |
4.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
233 |
Nguyễn Văn Thuận |
1999 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
234 |
Nguyễn Ngọc Bình |
1992 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
235 |
Nguyen Van Tan |
1990 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
236 |
Đỗ Văn Thắng |
1999 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
237 |
Nguyễn Tấn Vũ |
2000 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
238 |
Ho Van Tam |
1989 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
239 |
Nguyen Van Hung |
1995 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
240 |
Nguyễn Văn Hiếu |
1998 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
241 |
Trần Văn Xi |
1995 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
242 |
Ngô Đức Thuận |
2000 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
243 |
Nguyễn Văn Tuấn |
1988 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Không rõ |
244 |
Huỳnh Thục Vy |
1985 |
|
276 |
33 tháng |
Tại gia |
245 |
Trần Đình Sang |
1980 |
O9/4/2019 |
330 |
2 năm |
Trại tạm giam của CA Yên Bái |
246 |
Nguyễn Quang Tuy |
|
O9/2/2019 |
330 |
2 năm |
Hưng Nguyên, Nghệ An |
247 |
Nguyễn Văn Oai |
1981 |
19/1/2017 |
257, 304 |
5 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
248 |
Trần Minh Lợi |
1968 |
Không rõ |
290 |
6 năm |
Không rõ |
249 |
Nguyễn Văn Hữu |
1957 |
Không rõ |
Không rõ |
6 năm |
Không rõ |
250 |
Dieu Bre |
1969 |
Không rõ |
Không rõ |
4,5 năm |
Không rõ |
251 |
A Gron |
1943 |
Không rõ |
Không rõ |
8 năm |
Không rõ |
252 |
Dinh Ngo |
1987 |
Không rõ |
Không rõ |
7,5 năm |
Không rõ |
253 |
Pastor Runh |
1979 |
Không rõ |
Không rõ |
10 năm |
Không rõ |
254 |
Pastor Y Muk Nie |
1968 |
Không rõ |
Không rõ |
9 năm |
Không rõ |
255 |
Pastor Siu Nheo |
1955 |
Không rõ |
Không rõ |
10 năm |
Không rõ |
256 |
Y Ty Ksor |
1989 |
Không rõ |
Không rõ |
14 năm |
Không rõ |
257 |
Siu Bler |
1962 |
Không rõ |
Không rõ |
17 năm |
Không rõ |
258 |
Y Kur Bdap |
1971 |
Không rõ |
Không rõ |
17 năm |
Không rõ |
December 31, 2020
Thống kê mới nhất của Người Bảo vệ Nhân quyền: Việt Nam giam giữ 258 tù nhân lương tâm
by Nhan Quyen • [Human Rights], DEFENDER’S WEEKLY
Người Bảo vệ Nhân quyền, thông cáo báo chí, ngày 31/12/2020
Theo thống kê của tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders- DTD), tính đến ngày 31/12/2020, chế độ cộng sản Việt Nam đang giam giữ ít nhất 258 tù nhân lương tâm trong các nhà tù hoặc các hình thức giam giữ khác. Con số không bao gồm ông Ngô Hào hiện đang được hưởng án treo để chữa bệnh và ông Lê Anh Hùng bị cưỡng bức trong bệnh viện tâm thần mà không có thủ tục xét xử. Danh sách bao gồm nhà hoạt động nữ Huỳnh Thục Vy đã bị kết án nhưng bị quản thúc tại gia trong thời kỳ làm mẹ và công dân Úc ông Châu Văn Khảm bị kết tội khủng bố theo Điều 113 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Con số không bao gồm 15 dân oan ở xã Đồng Tâm bị bắt vào ngày 9/1 năm nay trong cuộc tấn công của hàng nghìn công an và cảnh sát cơ động và bị kết tội “chống người thi hành công vụ” tại phiên xử sơ thẩm ngày 7-14/9 nhưng đượchưởng án treo.
Có tới 27 trong số các tù nhân lương tâm được Người Bảo vệ Nhân quyền xác định là những nữ bảo vệ nhân quyền.
Tổng cộng, 186 người, chiếm 72% trong danh sách, là người dân tộc Kinh. Nhóm dân tộc lớn thứ hai trong danh sách là người Thượng, một nhóm tôn giáo và dân tộc thiểu số sống ở vùng núi Tây Nguyên. Họ chiếm 62 người hoặc 24% trong tổng số tù nhân lương tâm. Có tám tù nhân lương tâm là người dân tộc thiểu số Hmong và hai trong danh sách là người Khmer Krom.
Tù nhân lương tâm trong danh sách của Người Bảo vệ Nhân quyền là những blogger, luật sư, người hoạt động công đoàn, nhà hoạt động về quyền đất đai, nhà bất đồng chính kiến, người hoạt động nhân quyền và tín đồ của các tôn giáo thiểu số không đăng ký đã bị bắt giữ và kết án chỉ vì thực hiện một cách ôn hoà các quyền được bảo vệ bởi các công ước nhân quyền quốc tế và hiến pháp Việt Nam như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do của tôn giáo hoặc niềm tin. Danh sách này không bao gồm các cá nhân đã tham gia hoặc ủng hộ bạo lực.
Việt Nam vẫn còn giam giữ 33 nhà hoạt động trước khi xét xử, 7 người trong số họ bị bắt vào năm 2018-2019 và 26 người còn lại bị bắt vào năm 2020. Trong số đó nổi bật là Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thụy và blogger chính trị nổi tiếng Phạm Chí Thành (blogger Phạm Thành), nhà bảo vệ nhân quyền và blogger chính trị Phạm Đoan Trang. Các ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thuỵ và biên tập viên Lê Hữu Minh Tuấn sẽ bị đưa ra tòa vào ngày 5/1/2021với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Họ phải đối mặt với án tù từ 10 năm đến 20 năm tù nếu bị kết án.
Những người trên bao gồm 225 người đã bị kết án – hầu hết là bị kết tội theo các Điều 79, 87 và 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 109, 116, và 117 trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trong tổng số 258 tù nhân lương tâm có:
– 50 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội lật đổ (Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 49 nhà hoạt động bị kết án hoặc bị cáo buộc hoạt động tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 56 người dân tộc thiểu số bị kết tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc (Điều 87 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 20 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015);
– 13 nhà hoạt động bị kết án hoặc truy tố tội “gây rối an ninh” theo Điều 118 Bộ luật Hình sự 2015;
– 30 cá nhân bị kết án hoặc truy tố tội “Gây rối trật tự công cộng” (theo Điều 245 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015) vì các hoạt động ôn hòa của họ. Có tới 17 người trong số họ đã bị bỏ tù vì tham gia hoặc bị nghi ngờ lên kế hoạch tham gia các cuộc biểu tình vào giữa tháng 6 năm 2018;
– Ba nhà hoạt động Châu Văn Khảm (người Úc gốc Việt), Nguyễn Văn Viễn, và Trần Văn Quyền bị kết tội “khủng bố” theo Điều 113 Bộ luật Hình sự 2015.
– Hiện chưa rõ tội danh của 13 cá nhân, trong đó có 3 người Thượng theo giáo phái Hà Mòn bị bắt vào ngày 19/3 năm nay.
Việt Nam là một trong những nhà tù lớn nhất thế giới dành cho nhà báo và Facebooker, giam giữ 28 người, theo báo cáo của tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) công bố ngày 1/12. Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) có trụ sở tại New York ) cũng đã đưa Việt Nam vào danh sách những nhà tù lớn nhất thế giới dành cho các nhà báo với 15 nhà báo bị giam cầm.
Bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế
Để đảm bảo một “xã hội ổn định” cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền tiến hành đại hội đảng bộ địa phương và chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ 13 dự kiến vào cuối tháng 1 năm 2021, chế độ cộng sản đã thắt chặt kiểm soát xã hội, tăng cường đàn áp những người bất đồng chính kiến, những người chỉ trích chế độ, người hoạt động xã hội và người bảo vệ nhân quyền.
Cuộc đàn áp tiếp tục diễn ra trước và sau khi Quốc hội Châu Âu phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU (EVFTA) vào cuối tháng 3 và lên đến đỉnh điểm vào tháng 5-6 với việc bắt giữ 12 nhà hoạt động.
Khi Hoa Kỳ, EU và các quốc gia khác đang tập trung vào các vấn đề của riêng họ do đại dịch Covid-19 và cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 3/11, chế độ cộng sản Việt Nam đã tận dụng cơ hội để tăng cường đàn áp giới bất đồng chính kiến mà không bị chỉ trích bởi cộng đồng quốc tế. Cuộc đàn áp đã lên đến đỉnh điểm trong những tháng gần đây với việc bắt giữ hàng chục nhà hoạt động bị buộc tội với các điều khoản mơ hồ trong phần an ninh quốc gia của Bộ luật Hình sự.
Bắt giữ trong năm 2020
Từ ngày 1/1 đến 31/12, Việt Nam đã bắt giữ 37 nhà hoạt động và 29 người khiếu kiện đất đai ở xã Đồng Tâm. Có tới 13 nhà hoạt động bị buộc tội “tuyên truyền chống phá nhà nước” và trong số đó có blogger chính trị nổi tiếng Phạm Đoan Trang, ông Nguyễn Tường Thụy, blogger Phạm Thành, 4 các nhà bảo vệ nhân quyền ở Dương Nội, nhà môi trường Đinh Thị Thu Thủy và nhà báo độc lập Trần Thị Tuyết Diệu ở Tây Nguyên. Mười người khác bị cáo buộc “lạm dụng quyền tự do dân chủ,” trong đó có blogger nổi tiếng Trương Châu Hữu Danh.
Vào giữa tháng Ba, chính quyền ở Tây Nguyên cho biết họ đã bắt giữ ba tín đồ cuối cùng của giáo phái Hà Mòn đã sống trong rừng trong tám năm qua nhằm tránh bị chế độ cộng sản bắt giữ. Chế độ coi giáo phái này là bất hợp pháp và cố gắng giải tán nó bằng cách bỏ tù những người theo chủ chốt và người sáng lập của giáo phái. Hiện vẫn chưa biết 3 người này bị kết tội gì và khi nào.
Vào ngày 6/10, trong ngày Đối thoại Nhân quyền thường niên lần thứ 24 giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhà cầm quyền thành phố Hà Nội đã bắt giữ Phạm Đoan Trang và cáo buộc cô “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự và Điều 117 của Bộ Bộ luật Hình sự. Cô sẽ phải đối mặt với án tù lên đến 20 năm nếu bị kết tội.
Vào ngày 9/1, sau khi cử hàng ngàn cảnh sát chống bạo động giết chết lãnh đạo tinh thần xã Đồng Tâm ông Lê Đình Kình, nhà cầm quyền Hà Nội đã bắt giữ hơn 30 dân oan về đất đai tại địa phương, trong đó có người thân của ông Kình, người từng giữ nhiều chức vụ chủ chốt trong chính quyền xã Đồng Tâm. Sau đó, họ buộc tội 6 người trong số họ về tội “giết người” và 23 người còn lại với tội “chống lại người thi hành cộng vụ” để trả thù cho cuộc phản kháng củangười dân Đồng Tâm phản đối kế hoạch của thành phố lấy ruộng nông nghiệp của họ ở đồng Sênh từ năm 2017.
Vào cuối tháng 9, Công an tỉnh Đắk Lắk đã bắt cóc Phạm Đình Quý, giảng viên Đại học Tôn Đức Thắng, và Hoàng Minh Tuấn, giáo viên trường THPT Lê Thánh Tôn ở thành phố Nha Trang, và đưa họ về trụ sở Sở Công an ở thành phố Buôn Ma Thuột để thẩm vấn về việc tố cáo Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Bùi Văn Cường đạo văn khi đang làm luận án tiến sĩ. Cả hai bị tạm giữ và bị điều tra về tội “vu khống” khi Công an tỉnh Đắk Lắk hình sự hóa một vụ tranh chấp dân sự giữa hai người bị tạm giữ và Bí thư Cường, người là uy viên Trung ương Đảng, ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho nhiệm kỳ tới.
Kết án trong năm 2020
Trong năm 2020, chế độ cộng sản Việt Nam đã kết tội 23 nhà hoạt động và 29 dân oan đất Đồng Tâm.
Bốn nhà hoạt động bị kết tội “tuyên truyền chống nhà nước” và bị kết án từ năm đến 12 năm tù. Nhà vận động dân chủ Nguyễn Trung Linh bị kết án 12 năm tù, mức tù nặng nề nhất cho tội danh này. Ông đã bị biệt giam kể từ khi bị bắt vào cuối tháng 5 năm 2018 cho đến khi bị xét xử một cách bí mật vào tháng 7 năm nay.
Năm Facebooker bị kết tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ” vì đăng tin trực tuyến và bị phạt tù từ chín tháng đến 18 tháng.
Vào giữa tháng 12, cựu sỹ quan quân đội cộng sản và blogger Trần Đức Thạch đã bị kết tội lật đổ và bị kết án 12 năm tù giam và ba năm quản chế bởi phiên xử sơ thẩm chỉ kéo dài ba giờ. Nhà hoạt động dân chủ 68 tuổi bị bắt vào cuối tháng Tư.
Vào giữa tháng 3, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã kết án Sùng A Sính và Lầu A Lềnh người dân tộc Hmông về tộidanh “hoạt động nhằm lật đổ chế độ” và kết án họ tù chung than. Theo truyền thông nhà nước, hai nhà hoạt động này đã thuyết phục người dân tộc Hmong khác vào tháng 8 năm 2018 và tháng 3 năm 2019 thành lập nhà nước Hmong ở huyện Mường Nhé, Điện Biên. 12 người khác bị coi là đồng phạm và bị kết án từ 2 đến 20 năm tù cho cùng tội danh, tuy nhiên, tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền không có thông tin về những người này.
Ngày 31/7, Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết án tám thành viên nhóm Hiến Pháp là Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Hoàng Thị Thu Vang, Ngô Văn Dũng, Đoàn Thị Hồng, Trần Thanh Phương, Lê Quý Lộc, Đỗ Thế Hoá và Hồ Văn Cương bị bắt vào đầu tháng 9 năm 2018 với tội danh “gây rối an ninh” theo Điều 118 của Bộ luật Hình sự để trả thù việc họ tích cực tham gia cuộc biểu tình tại thành phố HCM ngày 10/6/2018, một cuộc biểu tình rong đó hàng chục nghìn người biểu tình phản đối hai dự luật Đặc khu kinh tế và An ninh mạng. Trong phiên toà xét xử ngắn ngủi không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về một phiên tòa công bằng, các nhà hoạt động đã bị kết án từ 30 tháng đến 8 năm tù và 2 đến 3 năm quản chế. Bốn nhà hoạt động Ngô Văn Dũng, Lê Quý Lộc, Hồ Văn Cương, và Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã kháng cáo phán quyết của tòa án và phiên xử phúc thẩm của họ được lên kế hoạch vào ngày 8/1/2021.
Trong phiên xét xử sơ thẩm đối với 29 người dân oan Đồng Tâm vào ngày 7-14/9, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã kết tội 6 người trong số họ tội danh giết người cho những chết chưa được xác minh của 3 sỹ quan công an trong vụ tấn công đẫm máu ở xã vào ngày 9/1 và kết tội 23 người còn lại về tội danh “chống người thi hành công vụ.” Phiên tòa dự kiến kéo dài 10 ngày làm việc, kết thúc vào ngày 14 tháng 9 khi thẩm phán quyết định tuyên án tử hình đối với Lê Đình Công và Lê Đình Chức, hai con trai của ông Lê Đình Kình, nạn nhân bị công an bắn chết trong đêm 09/1, và tù chung thân đối với cháu của ông là Lê Đình Danh. Ba người khác bị tuyên án từ 12 năm đến 16 năm tù trong khi tám người khác bị kết án từ ba năm đến sáu năm tù. Có đến 15 người khác bị án treo từ 15 tháng đến năm năm. Phiên tòa xét xử không công bằng với nhiều vi phạm Bộ luật Tố tụng Hình sự của các thẩm phán, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và Công an thành phố. Liên minh châu Âu, Chính phủ Anh và một số tổ chức nhân quyền quốc tế như Theo dõi Nhân quyền (HRW) và Ân xá Quốc tế đã lên án phán quyết của tòa án. Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền cùng tổ chức Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam cũng đã ra thông cáo chung kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho tất cả 29 dân oan đất Đồng Tâm và bỏ cáo buộc họ cũng như tiến hành một cuộc điều tra khách quan và công bằng để đưa những kẻ chịu trách nhiệm về vụ đột kích và giết ông Kính ra tòa.
Tòa án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã giữ nguyên bản án 11 năm tù giam và 5 năm quản chế đối với nhà bảo vệ nhân quyền Nguyễn Năng Tĩnh về tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước” của Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An trong phiên xử sơ thẩm vào giữa tháng 11 năm ngoái.
Cùng với việc kết tội các nhà hoạt động không có bằng chứng rõ ràng về các điều khoản gây tranh cãi trong phần An ninh Quốc gia của Bộ luật Hình sự bằng các phiên tòa ngắn ngủi không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về một phiên tòa công bằng, chế độ cộng sản còn áp dụng các hình phạt tù kéo dài, khắc nghiệt hơn các bản án trong các vụ án chính trị một thập kỷ trước đây. Ông Nguyễn Trung Linh bị kết án 12 năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước.” Trong hai năm qua, nhiều nhà hoạt động khác đã bị kết án từ năm đến tám năm tù cho cùng tội danh. Một thập kỷ trước, các nhà hoạt động bị kết án cùng tội danh này chỉ bị phạt tù từ ba đến bốn năm.
Năm ngoái, Việt Nam đã kết án ông Lê Đình Lượng 20 năm tù về tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chế độ.” Năm nay, hai ông Sùng A Sính và Lầu A Lềnh người dân tộc Mông bị tuyên án chung thân về cùng tội danh này.
Ngược đãi trong tù
Bộ Công an Việt Nam tiếp tục chính sách giam giữ các tù nhân, đặc biệt là tù nhân lương tâm, trong điều kiện sống khắc nghiệt để trừng phạt họ vì những hoạt động bất bạo động nhưng có hại cho chế độ cộng sản nhằm làm suy sụp tinh thần của họ. Cùng với việc đưa tù nhân lương tâm đến các trại giam xa gia đình, giám thị trại giam và trại tạm giam thường áp dụng các biện pháp tâm lý khác để làm cho cuộc sống của những người hoạt động trở nên khó khăn hơn, chẳng hạn như từ chối họ quyền được gặp mặt thường xuyên với gia đình. và nhận thêm thức ăn và thuốc từ người thân của họ, đưa họ vào xà lim hoặc khu vực biệt lập, hoặc buộc họ làm việc nặng nhọc mà không có dụng cụ bảo hộ thích hợp. Bên cạnh đó, các biện pháp này cũng gây thêm chấn thương tâm lý và tài chính cho các thành viên trong gia đình.
Vào giữa tháng 4, cảnh sát đã hành hung các tù nhân lương tâm Ngô Văn Dũng và Lê Quý Lộc tại trại tạm giam Phan Đăng Lưu, thuộc Công an thành phố Hồ Chí Minh. Do vết thương quá nặng bởi vụ đánh đập này, cả hai phải nhập viện điều trị trong một tuần. Sau đó, ông Lộc được đưa trở lại cơ sở còn ông Dũng được chuyển đến cơ sở tạm giam Chí Hòa cũng thuộc thẩm quyền của Công an thành phố.
Vào đầu tháng 1, giám thị và quản giáo tại Trại giam Ba Sao ở tỉnh Hà Nam đã giam Phan Kim Khánh và Nguyễn Viết Dũng trong phòng biệt giam trong nhiều tuần để trả thù vì họ phản đối việc đối xử vô nhân đạo trong tù. Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Báo cáo viên Đặc biệt về Tra tấn cho rằng biệt giam kéo dài có thể bị coi là tra tấn.
Nhà hoạt động Đoàn Thị Hồng nói với gia đình rằng cô bị giam giữ trong điều kiện sống khắc nghiệt trong một cơ sở tạm giữ thuộc thẩm quyền của Công an Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn điều tra cũng như trong thời gian tạm giam trước khi xét xử.
Nhiều dân oan Đồng Tâm cho rằng họ bị tra tấn trong quá trình thẩm vấn trong trại tạm giam trước khi xét xử. Ngoài ra, sáu người trong số họ bị buộc phải khai nhận sai và cảnh sát Hà Nội đã quay phim và phát sóng trên kênh truyền hình quốc gia VTV, theo một báo cáo có tiêu đề “Cưỡng bức trước máy quay: cách Việt Nam buộc những người bị bắt giữ tự thú trên TV” do tổ chức Safeguard Defenders thực hiện.
Năm 2020, do sự ngược đãi của cai ngục, các tù nhân lương tâm ở nhiều trại giam, bao gồm Trại giam An Điềm tỉnh Quảng Nam, Trại giam Ba Sao tỉnh Hà Nam, Trại giam Gia Trung, tỉnh Tây Nguyên. Lai, v.v … đã thực hiện nhiều cuộc tuyệt thực kéo dài để yêu cầu được đối xử tốt hơn và chấm dứt sự tra tấn về tinh thần và thể chất.
Từ tháng 3 đến tháng 12, khi COVID-19 đang lan rộng trên toàn quốc, các trại giam và cơ sở tạm giữ của Việt Nam đã không cho phép gia đình và thân nhân của các tù nhân lương tâm gặp họ hoặc cung cấp thêm thực phẩm và thuốc men cho họ, cũng như các mặt hàng thiết yếu khác. Trước những lo ngại về phẩm cấp thực phẩm, sức khỏe và vệ sinh thấp trong các nhà tù, cuộc sống của các tù nhân lương tâm thường bị đe dọa nghiêm trọng.
Vào ngày 23/11, nhà vận động dân chủ nổi tiếng Trần Huỳnh Duy Thức đã bắt đầu tuyệt thực trong khi chấp hành án tù 16 năm tại Trại giam số 6, tỉnh Nghệ An để yêu cầu đươc trả tự do. Theo các luật sư của ông, ông phải được hưởng lợi từ những sửa đổi của Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực vào năm 2018. Theo Điều 7 và Điều 109 của bộ luật mới, tội “Chuẩn bị phạm tội [hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. ] bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Đây là cơ sở để ông Trần Huỳnh Duy Thức kháng cáo từ tháng 7/2018 yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do cho ông sau khi ông liên tục chấp hành án từ năm 2010. Chế độ cộng sản Việt Nam vẫn im lặng sau hơn một tháng ông nhịn ăn bất chấp những lời kêu gọi của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và trong nước đòi trả tự do cho ông.
Theo Luật Thi hành án hình sự của Việt Nam có hiệu lực vào năm 2019, những người bị giam trong các trại giam vàtrại tạm giam trên toàn quốc được hưởng chế độ ăn uống tương đối tốt. Tuy nhiên, trên thực tế, phần thức ăn họ nhận được không đủ để duy trì sức khỏe nên gia đình họ phải cung cấp thêm thực phẩm và đồ dùng theo định kỳ, thường là hai lần một tháng. Đôi khi trong đại dịch Covid-19, nhiều trại giam và trại tạm giam từ chối cho phép gia đình gửi thức ăn cho họ mà buộc họ gửi tiền để họ có thể mua tại căng tin của cơ sở với giá cao hơn nhiều so với giá thị trường. Nó đã gây ra khó khăn cho các gia đình tù nhân lương tâm do thực tế là các nhà hoạt động và gia đình thường bị nhà cầm quyền địa phương liên tục hạch sách và tìm mọi cách ngăn chặn các hoạt động kinh tế của họ.
Cùng với việc đàn áp tù nhân lương tâm, chính quyền một số địa phương còn sách nhiễu gia đình họ. Sau khi bắt cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu và hai con trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tú với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” vào cuối tháng Sáu, công an Hà Nội và Hòa Bình liên tục uy hiếp gia đình bà, triệu tập chồng bà Trịnh BáKhiêm, cũng là một cựu tù nhân lương tâm và vợ ông Phương là bà Đỗ Thị Thu đến đồn công an để thẩm vấn về hoạt động của những người bị giam giữ.
Nhiều cựu tù nhân lương tâm nói rằng hầu hết các tù nhân lương tâm là người dân tộc thiểu số không có người thân đến thăm và cuộc sống của họ trong nhà tù rất khó khăn vì họ chỉ dựa vào nguồn thức ăn cung cấp của nhà tù.
Mãn hạn tù năm 2020
Vào năm 2020, 38 tù nhân lương tâm đã được trả tự do hoặc dự kiến sẽ mãn hạn tù. Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền chỉ có thông tin về mãn hạn tù của một số trường hợp. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đưa tên họ ra khỏi danh sách tù nhân lương tâm.
Vào cuối tháng Hai, người theo đạo Tin lành người Thượng Y Ngun Knul đã được trả tự do sau khi ngồi tù 16 năm. Ông bị bắt vào năm 2004 và sau đó bị kết án 18 năm tù với tội danh “phá hoại chính sách đoàn kết.” Ông bị nhiều bệnh hiểm nghèo do bị đối xử vô nhân đạo trong một thời gian dài trong các nhà tù khác nhau và chết vài tháng sau khi được trả tự do.
Ngày 18/9, mục sư Tin lành A Dao đã được trả tự do sau 4 năm tù giam nhờ lời kêu gọi của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ và một số dân biểu Hoa Kỳ. Ông bị bắt vào tháng 8 năm 2016 và bị kết án 5 năm tù sau khi tham gia một hội nghị tôn giáo khu vực ở Đông Timor.
Vào tháng 1, nhà chức trách Việt Nam đã quyết định đình chỉ việc thi hành án tù của tù nhân lương tâm Ngô Hào trong một năm, cho phép ông trở về nhà để điều trị bệnh. Người tù chính trị 72 tuổi đã được trại giam An Điềm, tỉnh Quảng Nam cho phép về nhà vào ngày 9/1 sau bảy năm bị giam giữ với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chế độ.” Ông được tạm hoãn thi hành án sau nhiều năm đề nghị vì sức khỏe của ông đã xấu đi một thời gian dài. Có lẽ họ không muốn mạo hiểm với trường hợp của ông sau cái chết của hai tù nhân lương tâm Đoàn Đình Nam và Đào Quang Thực vào năm 2019. Hiện chưa rõ ông Ngô Hào có phải quay lại trại giam để chấp hành nốt án phạt tù 15 năm hay không hay không.
Tù nhân lương tâm Huỳnh Đức Thịnh được trả tự do vào giữa tháng 12 sau khi nhập viện nhiều tuần để điều trị đột quỵ do xuất huyết mà ông phải chịu đựng trong hoàn cảnh không rõ ràng chỉ vài tuần trước khi mãn hạn. Công an thành phố HCM đã duy trì sự theo dõi chặt chẽ kể cả khi ông đang trong tình trạng nguy kịch trong bệnh viện cho đến khi ôngđược mãn án một năm tù. Điều đáng chú ý là con trai ông Huỳnh Đức Thanh Bình bị kết tội lật đổ và bị kết án 10 năm tù vào năm ngoái.
Cũng trong trường hợp tương tự với cha và con trai, người Mỹ gốc Việt Michael Minh Phuong Nguyen, người bị kết án 12 năm vì tội lật đổ, đã được trả tự do vào cuối tháng 10 sau hơn hai năm ở tù tại Việt Nam. Anh bị trục xuất đến California để đoàn tụ với gia đình. Anh ta cáo buộc lực lượng an ninh của Việt Nam bắt cóc anh ta và những người bạn của anh ta là Huỳnh Đức Thanh Bình và Trần Long Phi vào ngày 7 tháng 7 năm 2018 và thẩm vấn anh ta nhiều giờ một ngày trong thời gian tạm giam trước khi xét xử.
Vào đầu tháng 1, nhà cầm quyền Việt Nam đã trả tự do cho Trần Thị Nga, người bị bắt vào tháng 1 năm 2017 và sau đó bị kết án 9 năm với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước,” nhưng buộc cô phải sống lưu vong ở Mỹ cùng với chồng và hai con.
Công dân Úc gốc Việt Châu Văn Khảm không có may mắn như vậy. Vào tháng 11 năm ngoái, nhà hoạt động dân chủ 70 tuổi này đã bị kết tội khủng bố và bị kết án 12 năm tù, nhưng ông vẫn đang thi hành án tù mặc dù nhiều chính trị gia Úc và các tổ chức nhân quyền đã kêu gọi tự do cho ông.
Vào cuối tháng Bảy, ông Lê Minh Thể được trả tự do, ba tháng trước khi mãn hạn hai năm tù. Có khả năng là bác sĩ Hồ Văn Hải (blogger Hồ Hải) cũng đã được trả tự do sớm hơn nhiều tháng so với án 4 năm tù sau khi bị bắt và bị buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” vào tháng 11 năm 2016.
Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền lo ngại rằng nhà cầm quyền Hà Nội vẫn đang giam giữ blogger Lê Anh Hùng trong một cơ sở tâm thần địa phương sau khi điều tra ông về các cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” mà không có bất kỳ quy trình xét xử nào. Nhà hoạt động này bị cưỡng bức dùng thuốc, điều có thể cấu thành tra tấn theo luật quốc tế
==========
Thuật ngữ tù nhân lương tâm (POC) được Peter Benenson đưa ra vào những năm 1960. Khái niệm này đề cập đến bất kỳ cá nhân nào bị giam cầm vì niềm tin chính trị, tôn giáo hoặc vì lương tâm, nguồn gốc dân tộc, giới tính, màu da, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tình trạng kinh tế, sinh sản, khuynh hướng tình dục hoặc tình trạng khác mà không sử dụng bạo lực hoặc ủng hộ bạo lực hoặc thù hận.
Tổ chức Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders– DTD) là tổ chức phi lợi nhuận độc lập ở Việt Nam, hoạt động nhằm thúc đẩy quyền con người và quyền công dân. Tổ chức này có một mạng lưới với hàng trăm người bảo vệ nhân quyền trên toàn quốc, những người báo cáo tình trạng vi phạm nhân quyền trong khu vực của họ.
============================
Phụ lục 1: Danh sách người hoạt động, Facebooker và dân oan Đồng Tâm bị bắt trong năm 2020
Phụ lục 2: Danh sách người hoạt động, Facebooker và dân oan Đồng Tâm bị kết án trong năm 2020
Phụ lục 3: Danh sách tù nhân lương tâm được trả tự do năm 2020
Phụ lục 4: Danh sách tù nhân lương tâm còn bị giam giữ (tính đến 31/12/2020)