Jacobin, ngày 07/7/2019
(Vũ Quốc Ngữ dịch)
Trong một nỗ lực tuyệt vọng để chế ngự những công nhân nổi loạn, Việt Nam hiện đang xây dựng một cơ chế thương lượng tập thể. Nhưng việc trao quyền cho các công đoàn độc lập có thể gây rắc rối cho chính phủ độc tài và cho phép người lao động chống lại các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam.
Quốc hội bù nhìn của Việt Nam thường phê chuẩn những công ước quốc tế không phải là thứ gì đó có tiềm năng tạo ra những thay đổi lớn trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, vào ngày 14/6, quốc hội đã phê chuẩn Công ước 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về thương lượng tập thể và quyền thành lập tổ chức độc lập. Đây là một sự kiện lớn – bằng cách phê chuẩn công ướcnày, Việt Nam đã đưa ra một số sự đối nghịch và căng thẳng trong chuyển động.
ILO là cơ quan của Liên Hợp quốc về tiêu chuẩn lao động. Hai trong số các công ước của nó – Công ước 87 về tự do lập hội và bảo vệ quyền tổ chức, và Công ước 98, về quyền tổ chức và thương lượng tập thể – được coi là cơ bản cho khả năng ra đời của các công đoàn độc lập hoạt động và hoạt động tự do không có sự can thiệp của nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động. Công ước 98 cho phép người lao động được bảo vệ chống phân biệt đối xử chống công đoàn, và cho người lao động và các chủ sử dụng tổ chức của họ hoạt động mà không có sự can thiệp lẫn nhau. Công ước 87 cho phép người lao động thành lập và tham gia các công đoàn do chính họ lựa chọn mà không cần sự cho phép trước.
Hiện tại, Việt Nam chỉ có một liên đoàn công đoàn do nhà nước lãnh đạo, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), không độc lập với Đảng Cộng sản cầm quyền cũng như của người sử dụng lao động. Công đoàn độc lập hiện đang bị cấm. Ở cấp quốc gia, TLĐLĐVN trực thuộc đảng, trong khi ở cấp doanh nghiệp, nó bị chi phối bởi các nhà quản lý. Không có gì lạ khi một đại diện công đoàn một cơ sở kinh tế là giám đốc nhân sự của công ty hay vị trí tương tự.
Công ước 98 đã được phê chuẩn gần đây sẽ giúp phá vỡ sự thống trị của chủ lao động này trong các công ty ở cấp công ty, đòi hỏi các công nhân của các tổ chức và các nhà tuyển dụng không được can thiệp lẫn nhau. Công ước 87 – mà Việt Nam dự định phê chuẩn vào năm 2023 – sẽ hợp pháp hóa các tổ chức lao động độc lập, và do đó cho phép họ hoạt động mà không phải chịu sự phục tùng của Đảng Cộng sản. Một điều chưa từng có đối với một nhà nước xã hội chủ nghĩa độc đảng trong việc tích cực thúc đẩy các cải cách làm tăng đáng kể khả năng của các công đoàn hoạt động độc lập.
Nhưng công nhân Việt Nam chưa bao giờ đòi cải cách như vậy. Thay vào đó, họ tham gia vào các cuộc đình công tự phát- các cuộc đình công tự tổ chức giữa các công nhân thay vì được lãnh đạo bởi các công đoàn. Có hàng trăm cuộc đình công mỗi năm, và họ thường thành công trong việc đạt được mức tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Hình thức tổ chức lao động này – thương lượng tập thể bằng đình công, có hiệu quả và người lao động tiếp tục sử dụng nó. Ngoài lợi ích từ bánh mì và bơ ngay lập tức, hoạt động đình công tự phát cũng có một số tác động rộng lớn hơn, như đóng góp cho Việt Nam là một trong số ít các quốc gia tăng trưởng lương nhanh hơn tăng trưởng năng suất và góp phần tạo ra thay đổi lớn trong luật an sinh xã hội năm 2015 .
Ngoài ra, trong hai thập kỷ qua, lực lượng công nhân đã buộc nhà nước phải thực hiện nhiều sáng kiến trong nỗ lực giảm bớt các cuộc đình công và xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa giữa họ để đảm bảo sự suôn sẻ hoạt động của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng bao gồm thiết lập một cơ chế đàm phán lương tối thiểu hàng năm, thí nghiệm thương lượng tập thể trong hệ thống hiện có và nỗ lực cải cách VGCL. Các dự án như vậy phần lớn đã không đạt được mục tiêu giảm đáng kể số lượng đình công. Do đó, các cơ quan nhà nước và người sử dụng lao động, trong một nỗ lực tuyệt vọng để ngăn chặn dòng chảy đình công và nhận ra rằng công đoàn do nhà nước lãnh đạo không thể làm như vậy, bắt đầu thúc đẩy công đoàn độc lập, cho rằng các công đoàn đại diện thực sự sẽ cho phép đối thoại giữa người lao động và người sử dụng lao động có thể giúp ngăn chặn đình công.
Đồng thời, Việt Nam gia nhập thị trường toàn cầu và mạng lưới sản xuất đã tham gia ký kết một số hiệp định thương mại quốc tế, trong đó có nhiều điều khoản về quyền lao động. Do đó, hai áp lực cần giảm đình công và cần ký kết các hiệp ước hội nhập tư bản đã kết hợp để tạo ra các yếu tố của nhà nước và tư bản Việt Nam – bao gồm Bộ Lao động, một số bộ phận của TLĐLĐVN và một số bộ phận của giai cấp tư sản công nghiệp – tiếp thu ý tưởng tự do lập hội.
Điều này trở nên đặc biệt rõ ràng trong các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó cải cách lao động là một yếu tố quan trọng. TPP ban đầu có một thỏa thuận phụ khá chi tiết giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, giải thích cách thức tự do lập hội sẽ được thực thi (mặc dù điều này không phải không có sự chỉ trích). Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP, thỏa thuận phụ đã chết.
Hiệp địnhToàn diện và Tiến bộ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hiện có hiệu lực và liên quan đến các bên ký kết ban đầu của TPP trừ Hoa Kỳ, có các điều khoản yếu hơn cho cải cách lao động. Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam cũng có một chương về quyền lao động tương tự. Mặc dù mơ hồ về các cam kết lao động, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang thực hiện cải cách một cách nghiêm túc. Con đường này đã dẫn đến việc phê chuẩn Công ước 98 và sẽ dẫn đến việc phê chuẩn Công ước 87.
Có một sự phức tạp. Trớ trêu thay, chính các thỏa thuận thương mại đã góp phần thuyết phục nhà nước Việt Nam cho phép tự do công đoàn lớn hơn cũng đang áp dụng các cấu trúc mà ở phương Tây, đã làm suy yếu chủ nghĩa công đoàn và thương lượng tập thể tại nơi làm việc. Khi những chiến lược này dường như đã thành công trong việc mang lại lợi ích vật chất thực sự cho người lao động trong một thời gian ở Châu Âu và Hoa Kỳ, cuối cùng chúng đã bị xói mòn bởi những cải cách mới, làm tăng đáng kể tính linh hoạt vốn và sự bấp bênh lao động. Do đó, các công đoàn và cơ cấu thương lượng tập thể, dựa trên các cuộc đàm phán liên tục giữa người sử dụng lao động và người lao động và dựa trên việc làm lâu dài an toàn, ngày càng trở nên kém hiệu quả và rối loạn chức năng.
Điều này tạo ra một cuộc khủng hoảng trong các công đoàn và các phong trào lao động mà họ vẫn chưa phục hồi. Mục đích chính của các hiệp định thương mại mà Việt Nam đang tham gia là cho phép vốn quốc tế tự do hơn nhiều để di chuyển khắp thế giới để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, các thỏa thuận phục vụ để thu hút dòng vốn mới, và sự linh hoạt tương tự đã góp phần phá hủy các hệ thống quan hệ công nghiệp ổn định ở phương Tây.
Hơn nữa, trong khi các cuộc thảo luận về Công ước 87 và 98 đã được tiến hành trong vài năm qua, Việt Nam đã đồng thời ngày càng đàn áp các nhà hoạt động và tổ chức xã hội dân sự, bao gồm các nhà hoạt động công đoàn. Ngay cả các nhà nghiên cứu điều tra các chủ đề thường không được coi là đặc biệt gây tranh cãi, chẳng hạn như sức khỏe của công nhân, đã phải chịu sự quấy rối từ chính quyền. Hoạt động tự do của các công đoàn mà không có sự sử dụng lao động hoặc sự can thiệp của nhà nước là không phù hợp với một nhà nước độc đoán không có dấu hiệu từ bỏ quyền lực.
Thông qua việc phê chuẩn Công ước 98, Việt Nam đã đặt ra một số xu hướng mâu thuẫn. Đầu tiên, chính phủ đang tiến hành cải cách để tạo ra một hệ thống quan hệ công nghiệp được cho là nền tảng của việc làm ổn định, sức khỏe và an toàn nơi làm việc, và tiền lương cao hơn – đồng thời thúc đẩy dòng vốn mới, chính là thứ đã phá hủy các hệ thống quan hệ công nghiệp như vậy nơi họ đã phần nào thành công. Thứ hai, trong khi các hoạt động lập pháp cho phép các công đoàn độc lập hơn, chính quyền cũng đang kìm kẹp không gian xã hội dân sự. Thêm vào hỗn hợp này một số lượng đáng kể các cuộc đình công tự phát tiếp tục, và chúng ta trôngđợi một điều gì đó sẽ xảy ra dù không ai biết đó là gì.
Nguồn: Vietnam Gambles on Workers’ Rights
July 9, 2019
Việt Nam đánh bạc trên quyền lao động
by Nhan Quyen • [Human Rights]
Jacobin, ngày 07/7/2019
(Vũ Quốc Ngữ dịch)
Trong một nỗ lực tuyệt vọng để chế ngự những công nhân nổi loạn, Việt Nam hiện đang xây dựng một cơ chế thương lượng tập thể. Nhưng việc trao quyền cho các công đoàn độc lập có thể gây rắc rối cho chính phủ độc tài và cho phép người lao động chống lại các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam.
Quốc hội bù nhìn của Việt Nam thường phê chuẩn những công ước quốc tế không phải là thứ gì đó có tiềm năng tạo ra những thay đổi lớn trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, vào ngày 14/6, quốc hội đã phê chuẩn Công ước 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về thương lượng tập thể và quyền thành lập tổ chức độc lập. Đây là một sự kiện lớn – bằng cách phê chuẩn công ướcnày, Việt Nam đã đưa ra một số sự đối nghịch và căng thẳng trong chuyển động.
ILO là cơ quan của Liên Hợp quốc về tiêu chuẩn lao động. Hai trong số các công ước của nó – Công ước 87 về tự do lập hội và bảo vệ quyền tổ chức, và Công ước 98, về quyền tổ chức và thương lượng tập thể – được coi là cơ bản cho khả năng ra đời của các công đoàn độc lập hoạt động và hoạt động tự do không có sự can thiệp của nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động. Công ước 98 cho phép người lao động được bảo vệ chống phân biệt đối xử chống công đoàn, và cho người lao động và các chủ sử dụng tổ chức của họ hoạt động mà không có sự can thiệp lẫn nhau. Công ước 87 cho phép người lao động thành lập và tham gia các công đoàn do chính họ lựa chọn mà không cần sự cho phép trước.
Hiện tại, Việt Nam chỉ có một liên đoàn công đoàn do nhà nước lãnh đạo, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), không độc lập với Đảng Cộng sản cầm quyền cũng như của người sử dụng lao động. Công đoàn độc lập hiện đang bị cấm. Ở cấp quốc gia, TLĐLĐVN trực thuộc đảng, trong khi ở cấp doanh nghiệp, nó bị chi phối bởi các nhà quản lý. Không có gì lạ khi một đại diện công đoàn một cơ sở kinh tế là giám đốc nhân sự của công ty hay vị trí tương tự.
Công ước 98 đã được phê chuẩn gần đây sẽ giúp phá vỡ sự thống trị của chủ lao động này trong các công ty ở cấp công ty, đòi hỏi các công nhân của các tổ chức và các nhà tuyển dụng không được can thiệp lẫn nhau. Công ước 87 – mà Việt Nam dự định phê chuẩn vào năm 2023 – sẽ hợp pháp hóa các tổ chức lao động độc lập, và do đó cho phép họ hoạt động mà không phải chịu sự phục tùng của Đảng Cộng sản. Một điều chưa từng có đối với một nhà nước xã hội chủ nghĩa độc đảng trong việc tích cực thúc đẩy các cải cách làm tăng đáng kể khả năng của các công đoàn hoạt động độc lập.
Nhưng công nhân Việt Nam chưa bao giờ đòi cải cách như vậy. Thay vào đó, họ tham gia vào các cuộc đình công tự phát- các cuộc đình công tự tổ chức giữa các công nhân thay vì được lãnh đạo bởi các công đoàn. Có hàng trăm cuộc đình công mỗi năm, và họ thường thành công trong việc đạt được mức tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Hình thức tổ chức lao động này – thương lượng tập thể bằng đình công, có hiệu quả và người lao động tiếp tục sử dụng nó. Ngoài lợi ích từ bánh mì và bơ ngay lập tức, hoạt động đình công tự phát cũng có một số tác động rộng lớn hơn, như đóng góp cho Việt Nam là một trong số ít các quốc gia tăng trưởng lương nhanh hơn tăng trưởng năng suất và góp phần tạo ra thay đổi lớn trong luật an sinh xã hội năm 2015 .
Ngoài ra, trong hai thập kỷ qua, lực lượng công nhân đã buộc nhà nước phải thực hiện nhiều sáng kiến trong nỗ lực giảm bớt các cuộc đình công và xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa giữa họ để đảm bảo sự suôn sẻ hoạt động của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng bao gồm thiết lập một cơ chế đàm phán lương tối thiểu hàng năm, thí nghiệm thương lượng tập thể trong hệ thống hiện có và nỗ lực cải cách VGCL. Các dự án như vậy phần lớn đã không đạt được mục tiêu giảm đáng kể số lượng đình công. Do đó, các cơ quan nhà nước và người sử dụng lao động, trong một nỗ lực tuyệt vọng để ngăn chặn dòng chảy đình công và nhận ra rằng công đoàn do nhà nước lãnh đạo không thể làm như vậy, bắt đầu thúc đẩy công đoàn độc lập, cho rằng các công đoàn đại diện thực sự sẽ cho phép đối thoại giữa người lao động và người sử dụng lao động có thể giúp ngăn chặn đình công.
Đồng thời, Việt Nam gia nhập thị trường toàn cầu và mạng lưới sản xuất đã tham gia ký kết một số hiệp định thương mại quốc tế, trong đó có nhiều điều khoản về quyền lao động. Do đó, hai áp lực cần giảm đình công và cần ký kết các hiệp ước hội nhập tư bản đã kết hợp để tạo ra các yếu tố của nhà nước và tư bản Việt Nam – bao gồm Bộ Lao động, một số bộ phận của TLĐLĐVN và một số bộ phận của giai cấp tư sản công nghiệp – tiếp thu ý tưởng tự do lập hội.
Điều này trở nên đặc biệt rõ ràng trong các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó cải cách lao động là một yếu tố quan trọng. TPP ban đầu có một thỏa thuận phụ khá chi tiết giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, giải thích cách thức tự do lập hội sẽ được thực thi (mặc dù điều này không phải không có sự chỉ trích). Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP, thỏa thuận phụ đã chết.
Hiệp địnhToàn diện và Tiến bộ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hiện có hiệu lực và liên quan đến các bên ký kết ban đầu của TPP trừ Hoa Kỳ, có các điều khoản yếu hơn cho cải cách lao động. Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam cũng có một chương về quyền lao động tương tự. Mặc dù mơ hồ về các cam kết lao động, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang thực hiện cải cách một cách nghiêm túc. Con đường này đã dẫn đến việc phê chuẩn Công ước 98 và sẽ dẫn đến việc phê chuẩn Công ước 87.
Có một sự phức tạp. Trớ trêu thay, chính các thỏa thuận thương mại đã góp phần thuyết phục nhà nước Việt Nam cho phép tự do công đoàn lớn hơn cũng đang áp dụng các cấu trúc mà ở phương Tây, đã làm suy yếu chủ nghĩa công đoàn và thương lượng tập thể tại nơi làm việc. Khi những chiến lược này dường như đã thành công trong việc mang lại lợi ích vật chất thực sự cho người lao động trong một thời gian ở Châu Âu và Hoa Kỳ, cuối cùng chúng đã bị xói mòn bởi những cải cách mới, làm tăng đáng kể tính linh hoạt vốn và sự bấp bênh lao động. Do đó, các công đoàn và cơ cấu thương lượng tập thể, dựa trên các cuộc đàm phán liên tục giữa người sử dụng lao động và người lao động và dựa trên việc làm lâu dài an toàn, ngày càng trở nên kém hiệu quả và rối loạn chức năng.
Điều này tạo ra một cuộc khủng hoảng trong các công đoàn và các phong trào lao động mà họ vẫn chưa phục hồi. Mục đích chính của các hiệp định thương mại mà Việt Nam đang tham gia là cho phép vốn quốc tế tự do hơn nhiều để di chuyển khắp thế giới để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, các thỏa thuận phục vụ để thu hút dòng vốn mới, và sự linh hoạt tương tự đã góp phần phá hủy các hệ thống quan hệ công nghiệp ổn định ở phương Tây.
Hơn nữa, trong khi các cuộc thảo luận về Công ước 87 và 98 đã được tiến hành trong vài năm qua, Việt Nam đã đồng thời ngày càng đàn áp các nhà hoạt động và tổ chức xã hội dân sự, bao gồm các nhà hoạt động công đoàn. Ngay cả các nhà nghiên cứu điều tra các chủ đề thường không được coi là đặc biệt gây tranh cãi, chẳng hạn như sức khỏe của công nhân, đã phải chịu sự quấy rối từ chính quyền. Hoạt động tự do của các công đoàn mà không có sự sử dụng lao động hoặc sự can thiệp của nhà nước là không phù hợp với một nhà nước độc đoán không có dấu hiệu từ bỏ quyền lực.
Thông qua việc phê chuẩn Công ước 98, Việt Nam đã đặt ra một số xu hướng mâu thuẫn. Đầu tiên, chính phủ đang tiến hành cải cách để tạo ra một hệ thống quan hệ công nghiệp được cho là nền tảng của việc làm ổn định, sức khỏe và an toàn nơi làm việc, và tiền lương cao hơn – đồng thời thúc đẩy dòng vốn mới, chính là thứ đã phá hủy các hệ thống quan hệ công nghiệp như vậy nơi họ đã phần nào thành công. Thứ hai, trong khi các hoạt động lập pháp cho phép các công đoàn độc lập hơn, chính quyền cũng đang kìm kẹp không gian xã hội dân sự. Thêm vào hỗn hợp này một số lượng đáng kể các cuộc đình công tự phát tiếp tục, và chúng ta trôngđợi một điều gì đó sẽ xảy ra dù không ai biết đó là gì.
Nguồn: Vietnam Gambles on Workers’ Rights