Trong nhiều năm, chủ quyền ở Biển Đông là đối tượng tranh chấp gay gắt giữa các quốc gia ở trong khu vực: Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam, năm thành viên của khối ASEAN, Trung Quốc, về phía bắc, và Đài Loan.
The Diplomat, ngày 22/12/2017
(Bản dịch của Người Bảo vệ Nhân quyền)
Trong khi các quốc gia còn đang tranh cãi, với việc Trung Quốc đang ở thế thượng phong, nhiều nhà khoa học đã cảnh báo rằng Biển Đông đang nhanh chóng trở thành nơi xảy ra thảm hoạ môi trường, có thể kéo theo sự sụp đổ của một trong những ngành thủy sản hiệu quả nhất thế giới.
Giờ đây, một nhóm chuyên gia bao gồm các nhà chiến lược địa chính trị cũng như các nhà sinh vật học biển đang kêu gọi các bên tranh chấp cùng hợp tác để quản lý và bảo vệ nguồn lợi cá biển và môi trường biển. Điều này có thể được thực hiện mà không làm ảnh hưởng đến các yêu sách lãnh thổ của các quốc gia, các chuyên gia lập luận.
|
Bản đồ Biển Đông, với các hòn đảo chiếm giữ bởi 5 quốc gia (các hòn đảo hoang không được hiển thị). Bản đồ của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải của CSIS Châu Á. |
Sự thành công của bất kỳ kế hoạch quản lý nào phụ thuộc vào sự tham gia của Trung Quốc, nhưng vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc, một cường quốc với nhiều tham vọng về phát triển hải sản, sẽ hợp tác.
“Ở Biển Đông, cá có thể đẻ trứng trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia (EEZ), lớn lên ở vùng nước của quốc gia khác và trưởng thành ở vùng nước của quốc gia thứ ba. Đánh bắt quá mức hoặc hủy hoại môi trường tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi ảnh hưởng đến tất cả những ngư dân sống xung quanh biển,” các chuyên gia đã viết vào cuối mùa thu này một phần tóm tắt các khuyến nghị của họ. “Ngành thuỷ sản ở Biển Đông đang trên đà sụp đổ, và cách duy nhất để tránh mối nguy đó là hợp tác đa phương trong vùng biển đang tranh chấp.”
“Khai thác quá mức chắc chắn là một vấn đề nghiêm trọng”
Biển Đông là một vùng rộng mở, rộng hơn một nửa Địa Trung Hải, và có vai trò chiến lược không kém phần quan trọng. Hơn một nửa số tàu đánh cá trên thế giới hoạt động trong vùng Biển Đông, và trong những năm gần đây, vùng biển này đã thường xuyên sản xuất khoảng 12% sản lượng đánh bắt cá toàn cầu.
Nhưng việc khai thác quá mức gây hại rất nhiều. “Khai thác quá mức là một vấn đề nghiêm trọng,” theo ông Adam Greer thuộc Không lực Hoa Kỳ trong một bài báo đăng trên tạp chí The Diplomat năm ngoái. Đã có một số nỗ lực nhằm khai thác hải sản một cách bền vững.”
Một báo cáo do một số giáo sư Đại học British Columbia, Rashid Sumaila và William Cheung, kết luận rằng sinh khối của Biển Đông đã giảm 5%-30% so với mức năm 1950, và có lẽ 40% tổng lượng đánh bắt là bất hợp pháp hoặc đơn giản là không được đăng ký.
Năm quốc gia thành viên ASEAN xung quanh Biển Đông đã tuyên bố chủ quyền đối với các khu kinh tế độc quyền theo các quy tắc của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) có hiệu lực vào năm 1994. Những tuyên bố này chồng chéo nhau do các quốc gia nói trên có cách tính khác nhau về đường cơ sở, nhưng hầu hết các nhà quan sát đồng ý rằng các quốc gia này không nên cứng nhắc để loại bỏ xung đột. Ngược lại, tuyên bố của Trung Quốc là bất khả kháng về mặt pháp lý.
UNCLOS, mà Trung Quốc đã phê chuẩn, cho biết Trung Quốc chỉ có thể đòi một vùng đặc quyền kinh tế nằm ngoài khơi bờ biển phía nam của mình mở rộng tới nửa chừng Việt Nam và quần đảo Philippine. Thay vào đó, Bắc Kinh tuyên bố rằng tất cả hòn đảo, đá và các rạn san hô ở Biển Đông đều là “lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc từ thời cổ đại.”
|
Một bến tàu của Malaysia trên đảo Layang Layang (thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp ở Biển Đông). Ảnh: Greg Asner / Divephoto.org |
Năm 1974, quân đội Trung Quốc giành quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, Trung Quốc chiếm một số rạn san hô ở quần đảo Trường Sa gần các hòn đảo và các rạn san hô đang cai quản bởi Việt Nam và Philippines.
Khi các tàu tuần tra của Trung Quốc bắt các ngư dân Philippines từ Scarborough Shoal, một ngư trường giàu có cách đảo Luzon khoảng 200 km về phía tây, đảo chính của quần đảo Philippine, sự kiên nhẫn của Manila đã hết. Manila đã kháng cáo lên Toà án Quốc tế về Luật Biển ở Hague.
Tòa án này đã ra phán quyết chống lại Trung Quốc vào tháng 7 năm 2016, gọi yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phó Thủ tướng Trung Quốc Liu Zhenmin đã gọi phán quyết đó là “không có gì nhiều hơn là một mảnh giấy” mà “sẽ không được thi hành bởi bất cứ ai.”
Ngoài việc bác bỏ tranh luận “quyền lịch sử” của Trung Quốc, tòa án cũng phán quyết rằng các hoạt động của đội tàu đánh cá của Trung Quốc đã không tuân thủ lệnh cấm của UNCLOS và Bắc Kinh không hợp tác với các nước láng giềng trong việc bảo vệ hệ sinh thái và quản lý thủy sản. Tàu tuần tra của Trung Quốc đã tấn công các tàu đánh cá nước ngoài gần các hòn đảo mà nước này cho là Trung Quốc, và dường như Trung Quốc không quan tâm đến vấn đề này trong phán quyết của tòa án.
Điều này đã gây quan ngại cho các nhà sinh học biển, những người với hàng thập kỷ kinh nghiệm nghiên cứu những thay đổi trong các hệ sinh thái biển Đông, những người lý luận rằng Trung Quốc có nhiều mất mát như bất kỳ nước nào khác trong các quốc gia có yêu sách khi tất cả các quốc gia này cạnh tranh nhau trong việc khai thác các nguồn lợi thuỷ sản đang suy giảm. Trên cơ sở đó, họ hy vọng rằng Trung Quốc, hiện đang thực hiện việc xây dựng đảo nhân tạo ở quy mô lớn nhất trên quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, sẽ chọn hợp tác trong việc quản lý thuỷ sản ở Biển Đông một cách bền vững.
December 27, 2017
Sự nguy hiểm mà ngư dân phải đối mặt ở Biển Đông
by Nhan Quyen • [Human Rights]
Trong nhiều năm, chủ quyền ở Biển Đông là đối tượng tranh chấp gay gắt giữa các quốc gia ở trong khu vực: Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam, năm thành viên của khối ASEAN, Trung Quốc, về phía bắc, và Đài Loan.
The Diplomat, ngày 22/12/2017
(Bản dịch của Người Bảo vệ Nhân quyền)
Trong khi các quốc gia còn đang tranh cãi, với việc Trung Quốc đang ở thế thượng phong, nhiều nhà khoa học đã cảnh báo rằng Biển Đông đang nhanh chóng trở thành nơi xảy ra thảm hoạ môi trường, có thể kéo theo sự sụp đổ của một trong những ngành thủy sản hiệu quả nhất thế giới.
Giờ đây, một nhóm chuyên gia bao gồm các nhà chiến lược địa chính trị cũng như các nhà sinh vật học biển đang kêu gọi các bên tranh chấp cùng hợp tác để quản lý và bảo vệ nguồn lợi cá biển và môi trường biển. Điều này có thể được thực hiện mà không làm ảnh hưởng đến các yêu sách lãnh thổ của các quốc gia, các chuyên gia lập luận.
Sự thành công của bất kỳ kế hoạch quản lý nào phụ thuộc vào sự tham gia của Trung Quốc, nhưng vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc, một cường quốc với nhiều tham vọng về phát triển hải sản, sẽ hợp tác.
“Ở Biển Đông, cá có thể đẻ trứng trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia (EEZ), lớn lên ở vùng nước của quốc gia khác và trưởng thành ở vùng nước của quốc gia thứ ba. Đánh bắt quá mức hoặc hủy hoại môi trường tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi ảnh hưởng đến tất cả những ngư dân sống xung quanh biển,” các chuyên gia đã viết vào cuối mùa thu này một phần tóm tắt các khuyến nghị của họ. “Ngành thuỷ sản ở Biển Đông đang trên đà sụp đổ, và cách duy nhất để tránh mối nguy đó là hợp tác đa phương trong vùng biển đang tranh chấp.”
“Khai thác quá mức chắc chắn là một vấn đề nghiêm trọng”
Biển Đông là một vùng rộng mở, rộng hơn một nửa Địa Trung Hải, và có vai trò chiến lược không kém phần quan trọng. Hơn một nửa số tàu đánh cá trên thế giới hoạt động trong vùng Biển Đông, và trong những năm gần đây, vùng biển này đã thường xuyên sản xuất khoảng 12% sản lượng đánh bắt cá toàn cầu.
Nhưng việc khai thác quá mức gây hại rất nhiều. “Khai thác quá mức là một vấn đề nghiêm trọng,” theo ông Adam Greer thuộc Không lực Hoa Kỳ trong một bài báo đăng trên tạp chí The Diplomat năm ngoái. Đã có một số nỗ lực nhằm khai thác hải sản một cách bền vững.”
Một báo cáo do một số giáo sư Đại học British Columbia, Rashid Sumaila và William Cheung, kết luận rằng sinh khối của Biển Đông đã giảm 5%-30% so với mức năm 1950, và có lẽ 40% tổng lượng đánh bắt là bất hợp pháp hoặc đơn giản là không được đăng ký.
Năm quốc gia thành viên ASEAN xung quanh Biển Đông đã tuyên bố chủ quyền đối với các khu kinh tế độc quyền theo các quy tắc của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) có hiệu lực vào năm 1994. Những tuyên bố này chồng chéo nhau do các quốc gia nói trên có cách tính khác nhau về đường cơ sở, nhưng hầu hết các nhà quan sát đồng ý rằng các quốc gia này không nên cứng nhắc để loại bỏ xung đột. Ngược lại, tuyên bố của Trung Quốc là bất khả kháng về mặt pháp lý.
UNCLOS, mà Trung Quốc đã phê chuẩn, cho biết Trung Quốc chỉ có thể đòi một vùng đặc quyền kinh tế nằm ngoài khơi bờ biển phía nam của mình mở rộng tới nửa chừng Việt Nam và quần đảo Philippine. Thay vào đó, Bắc Kinh tuyên bố rằng tất cả hòn đảo, đá và các rạn san hô ở Biển Đông đều là “lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc từ thời cổ đại.”
Năm 1974, quân đội Trung Quốc giành quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, Trung Quốc chiếm một số rạn san hô ở quần đảo Trường Sa gần các hòn đảo và các rạn san hô đang cai quản bởi Việt Nam và Philippines.
Khi các tàu tuần tra của Trung Quốc bắt các ngư dân Philippines từ Scarborough Shoal, một ngư trường giàu có cách đảo Luzon khoảng 200 km về phía tây, đảo chính của quần đảo Philippine, sự kiên nhẫn của Manila đã hết. Manila đã kháng cáo lên Toà án Quốc tế về Luật Biển ở Hague.
Tòa án này đã ra phán quyết chống lại Trung Quốc vào tháng 7 năm 2016, gọi yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phó Thủ tướng Trung Quốc Liu Zhenmin đã gọi phán quyết đó là “không có gì nhiều hơn là một mảnh giấy” mà “sẽ không được thi hành bởi bất cứ ai.”
Ngoài việc bác bỏ tranh luận “quyền lịch sử” của Trung Quốc, tòa án cũng phán quyết rằng các hoạt động của đội tàu đánh cá của Trung Quốc đã không tuân thủ lệnh cấm của UNCLOS và Bắc Kinh không hợp tác với các nước láng giềng trong việc bảo vệ hệ sinh thái và quản lý thủy sản. Tàu tuần tra của Trung Quốc đã tấn công các tàu đánh cá nước ngoài gần các hòn đảo mà nước này cho là Trung Quốc, và dường như Trung Quốc không quan tâm đến vấn đề này trong phán quyết của tòa án.
Điều này đã gây quan ngại cho các nhà sinh học biển, những người với hàng thập kỷ kinh nghiệm nghiên cứu những thay đổi trong các hệ sinh thái biển Đông, những người lý luận rằng Trung Quốc có nhiều mất mát như bất kỳ nước nào khác trong các quốc gia có yêu sách khi tất cả các quốc gia này cạnh tranh nhau trong việc khai thác các nguồn lợi thuỷ sản đang suy giảm. Trên cơ sở đó, họ hy vọng rằng Trung Quốc, hiện đang thực hiện việc xây dựng đảo nhân tạo ở quy mô lớn nhất trên quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, sẽ chọn hợp tác trong việc quản lý thuỷ sản ở Biển Đông một cách bền vững.
Nguồn: The Danger to the South China Sea Fishery