Bản dịch của [rollinglinks]Vũ Quốc Ngữ[/rollinglinks]
Defend the Defenders
Nguồn: Amnesty International
Luật nhân đạo quốc tế, mà cung cấp các tiêu chuẩn tối thiểu khi có xung đột vũ trang, có một số biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm quyền được xét xử công bằng. Những biện pháp này được áp dụng cho nhiều nhóm người khác nhau trong thời gian diễn ra xung đột vũ trang giữa các quốc gia hoặc nội chiến. Mặc dù nghĩa vụ bảo đảm quyền được xét xử công bằng áp dụng cho tất cả các quốc gia và nhóm vũ trang đối lập, trong phần lớn các trường hợp, các bên tham chiến không có những toà án có thẩm quyền, độc lập và vô tư để đảm bảo xét xử công bằng, vì vậy họ sẽ chỉ được thực hiện được nghĩa vụ này bằng cách giao kẻ tình nghi cho tòa án hình sự quốc tế hoặc một nhà nước thực hiện quyền tài phán phổ quát.
32.1 Luật nhân đạo quốc tế
32.1.1 Luật nhân đạo quốc tế và luật nhân quyền
32.1.2 Áp dụng xuyên biên giới
32.1.3 Xung đột vũ trang quốc tế
32.1.4 Xung đột vũ trang phi quốc tế
32.1.5 Quyền xét xử công bằng
32.1.6 Không phân biệt đối xử
32.1.7 Thời hạn bảo hộ
32.2 Trước buổi điều trần xét xử
32.2.1 Thông báo
32.2.2 Giả định vô tội
32.2.3 Quyền được tự do từ sự ép buộc phải thú nhận
32.3 Quyền bị giam giữ trước phiên toà
32.3.1 Phụ nữ bị giam giữ
32.3.2 Trẻ em bị giam giữ
32.4 Quyền tại phiên tòa
32.4.1 Toà án có thẩm quyền, độc lập và vô tư
32.4.2 Được xét xử trong khoảng thời gian hợp lý
32.4.3 Quyền bào chữa
32.4.4 Cấm các nguy cơ kép
32.4.5 Bảo vệ chống hồi tố hoặc trừng phạt
32.5 Kết án trong trường hợp hình phạt không phải là tử hình
32.5.1 Cấm trừng phạt tập thể
32.6 Những trường hợp bị kết án tử hình
============================
Phần 1: 32.1 Luật nhân đạo quốc tế
Luật nhân đạo quốc tế điều chỉnh các ứng xử giữa các bên trong một cuộc xung đột vũ trang, mặc dù luật nhân quyền vẫn tiếp tục được áp dụng trong một cách thức bổ sung và củng cố.
Quyền được xét xử công bằng được đảm bảo trong luật nhân đạo quốc tế và điều ước quốc tế ở cả xung đột vũ trang quốc tế và xung đột vũ trang phi quốc tế.
Các quy tắc của pháp luật nhân đạo quốc tế được áp dụng trong tất cả các cuộc xung đột vũ trang – “không ai có thể bị kết án hoặc bị bỏ tù, trừ khi một phiên toà công bằng có đủ các đảm bảo pháp lý cần thiết” – là rộng hơn so với các điều khoản đảm bảo thường có trong các điều ước luật nhân đạo quốc tế. Các “đảm bảo tư pháp thiết yếu” của các quyền được xét xử công bằng theo Luật nhân đạo quốc tế được phản ánh không chỉ trong các hiệp định về luật nhân đạo quốc tế mà còn trong các toà án hình sự quốc tế như Điều lệ của Toà Hình sự Quốc tế (ICC), Tòa án đặc biệt cho Sierra Leone và Rwanda và Toà ánNam Tư và trong điều ước và văn kiện nhân quyền của quốc tế và khu vực.
Các điểm khởi đầu đối với xét xử công bằng trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế là Điều 75 của Nghị định thư I của Công ước Geneva. Hiệp ước này đã được phê chuẩn bởi 173 quốc gia tính đến tháng 6 năm 2013 và những đảm bảo xét xử công bằng tại Điều 75 giờ được xem là phản ánh luật nhân đạo quốc tế. Những đảm bảo của nó được áp dụng cho mọi người thuộc một bên của một xung đột vũ trang quốc tế, bao gồm tù binh chiến tranh, người từ chối tham chiến và những người bị cáo buộc về tội ác chống lại loài người và tội phạm chiến tranh. Điều 75 củng cố và, đến mức mà nó cung cấp sự bảo vệ rộng hơn, có các biện pháp bảo vệ cụ thể hơn cho các tù nhân chiến tranh dưới Công ước Geneva thứ ba và thường dân theo Công ước Geneva thứ tư.
Trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế, bao gồm các cuộc nội chiến, áp dụng các biện pháp bảo vệ tại Điều 3 chung cho các Công ước Geneva (Điều 3) và Nghị định thư II. Các nguyên tắc của Điều 3 bây giờ được coi là để áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế và cả phi quốc tế. Điều 6 của Nghị định thư II là dựa dựa trên các quy định về xét xử công bằng trong các Công ước Genevathứ ba và thứ tư và ICCPR.
Quyền được xét xử công bằng theo Luật nhân đạo quốc tế cần phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh mà Luật nhân đạo quốc tế áp dụng – không có hạn chế nào cho những quy định tương tự. Từ chối quyền được xét xử công bằng có thể bị coi là một tội ác chiến tranh trong một số hoàn cảnh.
Vì đảm bảo xét xử công bằng dưới các điều ước luật nhân đạo quốc tế chỉ áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể và cho nhóm người cụ thể, và hai Nghị định thư chưa được một số quốc gia phê chuẩn, việc áp dụng quy định của mỗi điều ước cần phải được xem xét cẩn thận trước khi trích dẫn. Mặc dù các quy định cụ thể có thể khác nhau, yêu cầu cơ bản về phiên toà công minh đảm bảo các biện pháp bảo đảm được áp dụng trong cả xung đột vũ trang quốc tế và phi quốc tế Cả.
32.1.1 Luật nhân đạo quốc tế và Luật nhân quyền
Luật nhân quyền quốc tế tiếp tục được áp dụng trong xung đột vũ trang. Như Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “sự bảo vệ của các công ước nhân quyền không ngừng trong thời gian của xung đột vũ trang, được bảo toàn thông qua ảnh hưởng của quy định hạn chế có trong Điều 4 của Công ước Quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị”. Tuy nhiên, việc hạn chế bất kỳ một nguyên tắc cơ bản nào của xét xử công bằng là bị cấm (xem Chương 31- Quyền được xét xử công bằng trong tình trạng khẩn cấp).
Ủy ban Nhân quyền đã tuyên bố rằng các nghĩa vụ theo ICCPR áp dụng “trong các tình huống xung đột vũ trang trong đó các quy định của pháp luật nhân đạo quốc tế được áp dụng.” Việc thực hiện đồng thời các luật nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế trong xung đột vũ trang là rất quan trọng vì các điều ước luật nhân đạo quốc tế đôi khi chỉ có các đảm bảo tối thiểu về xét xử công bằng và có một số khoảng trống được lấp đầy bởi luật nhân quyền.
Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “có ba tình thể: một số quyền có thể là vấn đề thuộc Luật nhân đạo quốc tế; một số khác là vấn đề của Luật nhân quyền, và nhóm vấn đề thứ 3 thuộc về hai luật trên.” Quyền được xét xử công bằng rơi vào nhóm thứ ba, và hai nhánh của luật bổ sung và củng cố quyền này.
Trong rất ít trường hợp xuất hiện ở đâu có thể có một cuộc xung đột giữa Luật nhân quyền quốc tế và Luật nhân đạo quốc tế, có những phương pháp tốt trong việc giải thích để giải quyết vấn đề. Phương pháp được chọn trong mỗi hoàn cảnh nên là phương pháp mà kết quả của nó là bảo vệ tốt nhất quyền được xét xử công bằng. P
phương pháp ưa thích là giải thích phù hợp: bất cứ khi nào có thể, hai nghĩa vụ được giải thích phù hợp với nhau. Sử dụng các nguyên tắc lex posterior trong trường hợp có xung đột thực sự giữa các luật, các nghĩa vụ gần đây nhất chiếm ưu thế . Sử dụng các nguyên tắc của specialis lex, nghĩa vụ cụ thể nhất chiếm ưu thế so với nghĩa vụ tổng quát.
Đối với quyền được xét xử công bằng với, luật nhân đạo quốc tế rõ ràng hoặc ngầm kết hợp với các luật pháp quốc tế khác, bao gồm luật nhân quyền, bất cứ khi nào luật đó bảo vệ tốt hơn. Vì vậy, rất hiếm khi cần sử dụng những phương pháp đó.
Thứ nhất, đối với các hiệp ước luật nhân đạo quốc tế, Điều 75 của Nghị định thư I, áp dụng trong các xung đột vũ trang quốc tế, quy định rằng không có đảm bảo nào về xét xử công bằng ở điều đó “có thể được diễn giải như là hạn chế hoặc gây hại cho những quy định khác có tính bảo vệ cao hơn dưới mọi quy tắc của luật quốc tế”. Hơn nữa, Điều 75- phản ánh luật tập quán quốc tế, thay thế bất kỳ điều khoản hiệp ước trước đó mà có ít tính bảo vệ hơn. Tương tự như vậy, những bảo đảm xét xử công bằng ở Điều 3 (Các nguyên tắc được áp dụng trong tất cả các cuộc xung đột vũ trang), “phải được …đưa ra nội dụng cụ thể bằng việc áp dụng các điều khoản của luật trong thực tế”, mà bao gồm cả luật nhân quyền.
Thứ hai, theo Luật phong tục nhân đạo quốc tế, quyền được xét xử công bằng bao gồm “tất cả sự bảo đảm pháp lý cần thiết”, như những điều tìm thấy trong văn kiện của tòa án hình sự quốc tế hóa và điều ước quốc tế và các công ước về quyền con người và các công cụ.
Như một ví dụ về cách các nghĩa vụ liên quan đến nhau trong thực tế, Điều 105 của Công ước Geneva Thứ ba quy định “luật sư hoặc người tư vấn đại diện quyền lợi cho một tù nhân chiến tranh có hai tuần chuẩn bị trước khi phiên toà khai mạc cũng như các phương tiện cần thiết để chuẩn bị bào chữa cho bị cáo:. Hai tuần là không đủ để chuẩn bị cho một phiên toà xét xử tội phạm nghiêm trọng và luật nhân quyền đảm bảo thời gian để chuẩn bị bào chữa. Quốc gia nơi tiến hành xét xử tuân thủ Điều 3 – các nguyên tắc mà được áp dụng trong tất cả các hoàn cảnh – cho phép “tất cả những đảm bảo tư pháp được xem là không thể thiếu”, bao gồm quyền có đủ thời gian và cơ sở vật chất để chuẩn bị bào chữa. Ngoài ra, quốc gia này còn bị ràng buộc bởi luật phong tục quốc tế- độc lập với mọi nghĩa vụ của bất kỳ một công ước nào-cung cấp “tất cả các bảo đảm pháp lý cần thiết” về xét xử công bằng, kể cả đủ thời gian để chuẩn bị bào chữa.
32.1.2 Áp dụng ngoài biên giới
Các nghĩa vụ được áp đặt bởi luật nhân đạo quốc tế cho một quốc gia có hiệu lực ở ngoài biên giới của quốc gia đó. Nghĩa vụ nhân quyền của một quốc gia được áp dụng cho cả những công dân của quốc gia đó đang sống ở nước ngoài. Điều này cũng bao gồm cả những nhân viên của nhà nước đang ở nước ngoài, ví dụ, người tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình hoặc lực lượng quân sự ở lãnh thổ bị chiếm đóng.
Tòa án Công lý quốc tế đã kết luận là ICCPR “được áp dụng đối với hành vi thực hiện bởi một nhà nước trong việc thực thi quyền tài phán bên ngoài lãnh thổ của quốc gia”. Tương tự như vậy, Ủy ban Nhân quyền đã tuyên bố rằng các quốc gia thành viên của ICCPR được yêu cầu “tôn trọng và bảo đảm” các quyền được đảm bảo trong hiệp ước đó cho “tất cả những người thuộc quyền tài phán của họ”, bao gồm “những người dưới sự kiểm soát hiệu quả của quốc gia hành động bên ngoài lãnh thổ của mình “.
Các quốc gia tham gia Công ước châu Mỹ và Công ước châu Âu ước có các nghĩa vụ tương tự
đối với các cá nhân bên ngoài lãnh thổ của họ mà chịu sự kiểm soát hiệu quả của các quốc gia đó.
32.1.3 Xung đột vũ trang quốc tế
Những người thuộc một bên trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế được đảm bảo các quyền được xét xử công bằng tại Điều 75 của Nghị định thư I. Cụ thể, theo Điều 75, những cá nhân bị nghi ngờ thực hiện tội ác chiến tranh hoặc tội ác chống lại nhân loại phải bị xét xử “phù hợp với các quy tắc áp dụng của luật pháp quốc tế”, và nếu họ không được hưởng lợi hơn từ bốn Công ước Geneva hoặc Nghị định thư I, phải được xét xử lý theo quy định tại Điều 75. Các quy định khác liên quan đến quyền được xét xử công bằng của tù binh chiến tranh trong các vụ án hình sự được tìm thấy tại các Điều 82-88 và 99-108 của Công ước Geneva thứ ba.
Những quy định bảo đảm xét xử công bằng cho cư dân trong lãnh thổ bị chiếm đóng được tìm thấy tại các Điều 64-78 của Công ước Geneva thứ tư. Các quyền của người nước ngoài trong lãnh thổ bị chiếm đóng được quy định tại các Điều 35-46 và quyền của những thường dân tạm trú được quy định tại các Điều 79-141.
32.1.4 Xung đột vũ trang phi quốc tế
Các quy định chính của luật nhân đạo quốc tế về quyền được xét xử công bằng trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế được tìm thấy tại Điều 3 ở tất cả bốn Công ước Geneva và Điều 6 của Nghị định thư II.
Điều chung 3 ap dụng cho xung đột vũ trang “không mang tính quốc tế” và các quy định của nó áp dụng cho “một người không có vai trò tích cực trong chiến sự, bao gồm các thành viên của lực lượng vũ trang những người đã hạ súng và những người không thể chiến đấu được do bệnh tật, thương tật, bị bắt hoặc các nguyên nhân khác”.
Nghị định thư II, bổ sung và phát triển, nhưng không hạn chế Điều 3, có một phạm vi hạn chế hơn. Điều 1 quy định rằng nó được áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang với sự tham chiến của “lực lượng quân sự đối lập hoặc các nhóm vũ trang có tổ chức” mà kiểm soát lãnh thổ ” để cho phép chúng thực hiện các hoạt động quân sự phối hợp và duy trì liên tục và để thực hiện Nghị định thư này”. Dưới Điều 2, Nghị định thư II không “áp dụng cho các tình huống rối loạn và căng thẳng nội bộ như bạo loạn, bạo lực lẻ tẻ và hành vi có tính chất tương tự nhưng không phải là xung đột vũ trang”.
32.1.5 Quyền được xét xử công bằng
Khi không có quy định rõ ràng về khía cạnh cụ thể của quyền được xét xử công bằng trong một hiệp ước luật nhân đạo quốc tế, điều đó không có nghĩa là luật nhân đạo quốc tế đó cho phép khía cạnh đó bị vi phạm. Những bảo đảm về quyền được xét xử công bằng được diễn giải rộng để kết hợp đầy đủ với các bảo đảm xét xử công bằng hiện tại, và chúng quy định cụ thể những yêu cầu tối thiểu để được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh.
Mặc dù nghĩa vụ để đảm bảo xét xử công bằng áp dụng công bằng cho các quốc gia và các nhóm vũ trang đối lập, trong phần lớn các trường hợp các nhóm đó không có các toà án có thẩm quyền, độc lập và vô tư để đảm bảo xét xử công bằng, vì vậy họ sẽ chỉ thỏa mãn nghĩa vụ này bằng cách trao kẻ tình nghi cho tòa án hình sự quốc tế hoặc một nhà nước thực hiện quyền tài phán phổ quát.
Điều chung 3 của các Công ước Geneva
(các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế; nguyên tắc áp dụng cho tất cả các cuộc xung đột vũ trang)
“… Những người không đóng vai trò tích cực trong chiến sự, bao gồm các thành viên của lực lượng vũ trang đã hạ vũ khí và những người không tham gia chiến đấu do bệnh tật, bị thương, bị giam giữ, hoặc bất kỳ lý do khác, nên được đối xử nhân đạo mà không bị phân biệt đối xử do chủng tộc, màu da, tôn giáo hay đức tin, giới tính hay bất kỳ tiêu chí tương tự khác.
Các hành vi sau đây đối với những người kể trên bị nghiêm cấm ở bất kỳ thời gian và ở bất cứ nơi nào
(a) bạo lực với cuộc sống và con người, cụ thể là giết người các loại, chèn ép và đối xử tàn bạo và tra tấn;
(b) Bắt con tin;
(c) Xúc phạm đến phẩm giá cá nhân, cụ thể là sỉ nhục và hạ nhục;
(d) Kết án và xử tử mà không có phán xét của toà án hợp pháp có đầy đủ các bảo đảm tư pháp được công nhận là thiết yếu của các dân tộc văn minh … ”
Nghị định thư I, Điều 75
(được áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế)
“Không có bản án nào có thể được thông qua và không có hình phạt tử hình nào áp dụng cho một người bị cho là phạm tội liên quan đến xung đột vũ trang trừ bản án đã được tuyên bởi một toà án hợp pháp tôn trọng các nguyên tắc chung của trình tự tư pháp chung… ”
Nghị định thư II, Điều 6
(được áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế)
“Không có bản án nào có thể được thông qua và không có hình phạt tử hình nào áp dụng cho một người bị cho là phạm tội liên quan đến xung đột vũ trang trừ bản án đã được tuyên bởi một toà án có những bảo đảm về độc lập và vô tư… ”
Trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế, Điều 75 của Nghị định thư I đòi hỏi xét xử người dân bởi một trong các bên trong cuộc xung đột phải được tiến hành bởi một toà án hợp pháp mà tôn trọng các nguyên tắc chung về thủ tục tư pháp thông thường “.
Điều 75 của Nghị định thư I chứa một danh sách không đầy đủ các điều khoản bảo đảm xét xử công bằng. Một được diễn đạt một cách rộng rãi, như phần a của Điều 75 yêu cầu thủ tục “sẽ cho phép kẻ bị buộc tội đủ quyền và phương tiện để bào chữa trước và trong phiên toà”.
Đối với thường dân sống trong lãnh thổ bị chiếm đóng trong một xung đột vũ trang quốc tế, Điều 71 của Công ước Geneva thứ 4 quy định “không một bản án nào được tuyên bởi các toà án của lực lượng chiếm đóng trừ phi bởi một toà án thông thường”.
Trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế, Điều chung 3 yêu cầu các xét xử phải cho phép các bảo đảm tư pháp mà được công nhận là nhu cầu cần thiết của các dân tộc văn minh”. Điều 6 của Nghị định thư II đòi hỏi toà án phải cung cấp “sự bảo đảm cần thiết về tính độc lập và vô tư” và chứa một danh sách ngắn không đầy đủ những bảo đảm.
32.1.6 Không đối xử phân biệt
Luật nhân đạo quốc tế có hai loại quy định không phân biệt đối xử liên quan đến xét xử. Những người bị giữ bởi một bên trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế có thể không bị tước quyền được đảm bảo cho các thành viên hoặc lực lượng hoặc công dân của bên đó. Điều này có nghĩa là tù binh chiến tranh không thể phải chịu sự trừng phạt cho cáo buộc hình sự, những tội không áp dụng cho các nhân viên quân sự của bên bắt giữ. Tù binh chiến tranh phải được xét xử bởi cùng một toà án và theo cùng một trình tự như toà xét xử nhân viên của quốc gia bắt giữ, và không bị kết án với mức án nặng hơn. (Xem phần 32.4.1 dưới đây)
Ngoài ra, theo điều ước và phong tục luật nhân đạo quốc tế, đối xử phân biệt bị cấm trong mọi cuộc chiến, cả xung đột vũ trang quốc tế và phi quốc tế, trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, quốc gia hay nguồn gốc xã hội, sự giàu có hoặc bất kỳ tiêu chí nào khác.
32.1.7 Thời hạn bảo vệ
Quy định xét xử công bằng của luật nhân đạo quốc tế áp dụng trong một số trường hợp sau khi đã ngừng chiến sự. Sự bảo đảm xét xử công bằng trong Nghị định thư I cho những người bị bắt, bị giam giữ bởi những lý do liên quan đến cuộc xung đột vũ trang quốc tế kéo dài “cho đến khi được trả tự do, hồi hương hoặc tái lập, thậm chí sau khi kết thúc cuộc xung đột vũ trang”.
Quyền được xét xử công bằng của thường dân trong lãnh thổ bị chiếm đóng được áp dụng từ khi bắt đầu của bất kỳ cuộc xung đột nào hoặc chiếm đóng cho đến một năm sau khi ngừng các hoạt động quân sự. Ngoài ra, lực lượng chiếm bị ràng buộc, trong thời gian chiếm đóng, phải thực hiện các đảm bảo xét xử công bằng. Trong bất cứ sự kiện nào, “người được bảo vệ mà việc trả tự do, hồi hương hoặc tái lập có thể thực hiện, thì tiếp tục được hưởng lợi bởi Công ước hiện tại này.”
Sự bảo đảm xét xử công bằng tại Điều 6 của Nghị định thư II tiếp tục áp dụng vào cuối cuộc xung đột vũ trang nội bộ cho những người bị tước đoạt tự do, hoặc những người bị hạn ché tự do vì lý do liên quan đến cuộc xung đột.
Đón đọc phần 2 của Chương cuối cùng 32
Xem các phần khác tại đây.
January 11, 2015
Trình tự Xét xử công minh -Phần 3: Những trường hợp đặc biệt – Chương 32- Quyền được xét xử công bằng khi có xung đột vũ trang
by Nhan Quyen • [Human Rights]
Bản dịch của [rollinglinks]Vũ Quốc Ngữ[/rollinglinks]
Defend the Defenders
Nguồn: Amnesty International
32.1 Luật nhân đạo quốc tế
32.1.1 Luật nhân đạo quốc tế và luật nhân quyền
32.1.2 Áp dụng xuyên biên giới
32.1.3 Xung đột vũ trang quốc tế
32.1.4 Xung đột vũ trang phi quốc tế
32.1.5 Quyền xét xử công bằng
32.1.6 Không phân biệt đối xử
32.1.7 Thời hạn bảo hộ
32.2 Trước buổi điều trần xét xử
32.2.1 Thông báo
32.2.2 Giả định vô tội
32.2.3 Quyền được tự do từ sự ép buộc phải thú nhận
32.3 Quyền bị giam giữ trước phiên toà
32.3.1 Phụ nữ bị giam giữ
32.3.2 Trẻ em bị giam giữ
32.4 Quyền tại phiên tòa
32.4.1 Toà án có thẩm quyền, độc lập và vô tư
32.4.2 Được xét xử trong khoảng thời gian hợp lý
32.4.3 Quyền bào chữa
32.4.4 Cấm các nguy cơ kép
32.4.5 Bảo vệ chống hồi tố hoặc trừng phạt
32.5 Kết án trong trường hợp hình phạt không phải là tử hình
32.5.1 Cấm trừng phạt tập thể
32.6 Những trường hợp bị kết án tử hình
============================
Phần 1: 32.1 Luật nhân đạo quốc tế
Luật nhân đạo quốc tế điều chỉnh các ứng xử giữa các bên trong một cuộc xung đột vũ trang, mặc dù luật nhân quyền vẫn tiếp tục được áp dụng trong một cách thức bổ sung và củng cố.
Quyền được xét xử công bằng được đảm bảo trong luật nhân đạo quốc tế và điều ước quốc tế ở cả xung đột vũ trang quốc tế và xung đột vũ trang phi quốc tế.
Các quy tắc của pháp luật nhân đạo quốc tế được áp dụng trong tất cả các cuộc xung đột vũ trang – “không ai có thể bị kết án hoặc bị bỏ tù, trừ khi một phiên toà công bằng có đủ các đảm bảo pháp lý cần thiết” – là rộng hơn so với các điều khoản đảm bảo thường có trong các điều ước luật nhân đạo quốc tế. Các “đảm bảo tư pháp thiết yếu” của các quyền được xét xử công bằng theo Luật nhân đạo quốc tế được phản ánh không chỉ trong các hiệp định về luật nhân đạo quốc tế mà còn trong các toà án hình sự quốc tế như Điều lệ của Toà Hình sự Quốc tế (ICC), Tòa án đặc biệt cho Sierra Leone và Rwanda và Toà ánNam Tư và trong điều ước và văn kiện nhân quyền của quốc tế và khu vực.
Các điểm khởi đầu đối với xét xử công bằng trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế là Điều 75 của Nghị định thư I của Công ước Geneva. Hiệp ước này đã được phê chuẩn bởi 173 quốc gia tính đến tháng 6 năm 2013 và những đảm bảo xét xử công bằng tại Điều 75 giờ được xem là phản ánh luật nhân đạo quốc tế. Những đảm bảo của nó được áp dụng cho mọi người thuộc một bên của một xung đột vũ trang quốc tế, bao gồm tù binh chiến tranh, người từ chối tham chiến và những người bị cáo buộc về tội ác chống lại loài người và tội phạm chiến tranh. Điều 75 củng cố và, đến mức mà nó cung cấp sự bảo vệ rộng hơn, có các biện pháp bảo vệ cụ thể hơn cho các tù nhân chiến tranh dưới Công ước Geneva thứ ba và thường dân theo Công ước Geneva thứ tư.
Trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế, bao gồm các cuộc nội chiến, áp dụng các biện pháp bảo vệ tại Điều 3 chung cho các Công ước Geneva (Điều 3) và Nghị định thư II. Các nguyên tắc của Điều 3 bây giờ được coi là để áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế và cả phi quốc tế. Điều 6 của Nghị định thư II là dựa dựa trên các quy định về xét xử công bằng trong các Công ước Genevathứ ba và thứ tư và ICCPR.
Quyền được xét xử công bằng theo Luật nhân đạo quốc tế cần phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh mà Luật nhân đạo quốc tế áp dụng – không có hạn chế nào cho những quy định tương tự. Từ chối quyền được xét xử công bằng có thể bị coi là một tội ác chiến tranh trong một số hoàn cảnh.
Vì đảm bảo xét xử công bằng dưới các điều ước luật nhân đạo quốc tế chỉ áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể và cho nhóm người cụ thể, và hai Nghị định thư chưa được một số quốc gia phê chuẩn, việc áp dụng quy định của mỗi điều ước cần phải được xem xét cẩn thận trước khi trích dẫn. Mặc dù các quy định cụ thể có thể khác nhau, yêu cầu cơ bản về phiên toà công minh đảm bảo các biện pháp bảo đảm được áp dụng trong cả xung đột vũ trang quốc tế và phi quốc tế Cả.
32.1.1 Luật nhân đạo quốc tế và Luật nhân quyền
Luật nhân quyền quốc tế tiếp tục được áp dụng trong xung đột vũ trang. Như Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “sự bảo vệ của các công ước nhân quyền không ngừng trong thời gian của xung đột vũ trang, được bảo toàn thông qua ảnh hưởng của quy định hạn chế có trong Điều 4 của Công ước Quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị”. Tuy nhiên, việc hạn chế bất kỳ một nguyên tắc cơ bản nào của xét xử công bằng là bị cấm (xem Chương 31- Quyền được xét xử công bằng trong tình trạng khẩn cấp).
Ủy ban Nhân quyền đã tuyên bố rằng các nghĩa vụ theo ICCPR áp dụng “trong các tình huống xung đột vũ trang trong đó các quy định của pháp luật nhân đạo quốc tế được áp dụng.” Việc thực hiện đồng thời các luật nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế trong xung đột vũ trang là rất quan trọng vì các điều ước luật nhân đạo quốc tế đôi khi chỉ có các đảm bảo tối thiểu về xét xử công bằng và có một số khoảng trống được lấp đầy bởi luật nhân quyền.
Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “có ba tình thể: một số quyền có thể là vấn đề thuộc Luật nhân đạo quốc tế; một số khác là vấn đề của Luật nhân quyền, và nhóm vấn đề thứ 3 thuộc về hai luật trên.” Quyền được xét xử công bằng rơi vào nhóm thứ ba, và hai nhánh của luật bổ sung và củng cố quyền này.
Trong rất ít trường hợp xuất hiện ở đâu có thể có một cuộc xung đột giữa Luật nhân quyền quốc tế và Luật nhân đạo quốc tế, có những phương pháp tốt trong việc giải thích để giải quyết vấn đề. Phương pháp được chọn trong mỗi hoàn cảnh nên là phương pháp mà kết quả của nó là bảo vệ tốt nhất quyền được xét xử công bằng. P
phương pháp ưa thích là giải thích phù hợp: bất cứ khi nào có thể, hai nghĩa vụ được giải thích phù hợp với nhau. Sử dụng các nguyên tắc lex posterior trong trường hợp có xung đột thực sự giữa các luật, các nghĩa vụ gần đây nhất chiếm ưu thế . Sử dụng các nguyên tắc của specialis lex, nghĩa vụ cụ thể nhất chiếm ưu thế so với nghĩa vụ tổng quát.
Đối với quyền được xét xử công bằng với, luật nhân đạo quốc tế rõ ràng hoặc ngầm kết hợp với các luật pháp quốc tế khác, bao gồm luật nhân quyền, bất cứ khi nào luật đó bảo vệ tốt hơn. Vì vậy, rất hiếm khi cần sử dụng những phương pháp đó.
Thứ nhất, đối với các hiệp ước luật nhân đạo quốc tế, Điều 75 của Nghị định thư I, áp dụng trong các xung đột vũ trang quốc tế, quy định rằng không có đảm bảo nào về xét xử công bằng ở điều đó “có thể được diễn giải như là hạn chế hoặc gây hại cho những quy định khác có tính bảo vệ cao hơn dưới mọi quy tắc của luật quốc tế”. Hơn nữa, Điều 75- phản ánh luật tập quán quốc tế, thay thế bất kỳ điều khoản hiệp ước trước đó mà có ít tính bảo vệ hơn. Tương tự như vậy, những bảo đảm xét xử công bằng ở Điều 3 (Các nguyên tắc được áp dụng trong tất cả các cuộc xung đột vũ trang), “phải được …đưa ra nội dụng cụ thể bằng việc áp dụng các điều khoản của luật trong thực tế”, mà bao gồm cả luật nhân quyền.
Thứ hai, theo Luật phong tục nhân đạo quốc tế, quyền được xét xử công bằng bao gồm “tất cả sự bảo đảm pháp lý cần thiết”, như những điều tìm thấy trong văn kiện của tòa án hình sự quốc tế hóa và điều ước quốc tế và các công ước về quyền con người và các công cụ.
Như một ví dụ về cách các nghĩa vụ liên quan đến nhau trong thực tế, Điều 105 của Công ước Geneva Thứ ba quy định “luật sư hoặc người tư vấn đại diện quyền lợi cho một tù nhân chiến tranh có hai tuần chuẩn bị trước khi phiên toà khai mạc cũng như các phương tiện cần thiết để chuẩn bị bào chữa cho bị cáo:. Hai tuần là không đủ để chuẩn bị cho một phiên toà xét xử tội phạm nghiêm trọng và luật nhân quyền đảm bảo thời gian để chuẩn bị bào chữa. Quốc gia nơi tiến hành xét xử tuân thủ Điều 3 – các nguyên tắc mà được áp dụng trong tất cả các hoàn cảnh – cho phép “tất cả những đảm bảo tư pháp được xem là không thể thiếu”, bao gồm quyền có đủ thời gian và cơ sở vật chất để chuẩn bị bào chữa. Ngoài ra, quốc gia này còn bị ràng buộc bởi luật phong tục quốc tế- độc lập với mọi nghĩa vụ của bất kỳ một công ước nào-cung cấp “tất cả các bảo đảm pháp lý cần thiết” về xét xử công bằng, kể cả đủ thời gian để chuẩn bị bào chữa.
32.1.2 Áp dụng ngoài biên giới
Các nghĩa vụ được áp đặt bởi luật nhân đạo quốc tế cho một quốc gia có hiệu lực ở ngoài biên giới của quốc gia đó. Nghĩa vụ nhân quyền của một quốc gia được áp dụng cho cả những công dân của quốc gia đó đang sống ở nước ngoài. Điều này cũng bao gồm cả những nhân viên của nhà nước đang ở nước ngoài, ví dụ, người tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình hoặc lực lượng quân sự ở lãnh thổ bị chiếm đóng.
Tòa án Công lý quốc tế đã kết luận là ICCPR “được áp dụng đối với hành vi thực hiện bởi một nhà nước trong việc thực thi quyền tài phán bên ngoài lãnh thổ của quốc gia”. Tương tự như vậy, Ủy ban Nhân quyền đã tuyên bố rằng các quốc gia thành viên của ICCPR được yêu cầu “tôn trọng và bảo đảm” các quyền được đảm bảo trong hiệp ước đó cho “tất cả những người thuộc quyền tài phán của họ”, bao gồm “những người dưới sự kiểm soát hiệu quả của quốc gia hành động bên ngoài lãnh thổ của mình “.
Các quốc gia tham gia Công ước châu Mỹ và Công ước châu Âu ước có các nghĩa vụ tương tự
đối với các cá nhân bên ngoài lãnh thổ của họ mà chịu sự kiểm soát hiệu quả của các quốc gia đó.
32.1.3 Xung đột vũ trang quốc tế
Những người thuộc một bên trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế được đảm bảo các quyền được xét xử công bằng tại Điều 75 của Nghị định thư I. Cụ thể, theo Điều 75, những cá nhân bị nghi ngờ thực hiện tội ác chiến tranh hoặc tội ác chống lại nhân loại phải bị xét xử “phù hợp với các quy tắc áp dụng của luật pháp quốc tế”, và nếu họ không được hưởng lợi hơn từ bốn Công ước Geneva hoặc Nghị định thư I, phải được xét xử lý theo quy định tại Điều 75. Các quy định khác liên quan đến quyền được xét xử công bằng của tù binh chiến tranh trong các vụ án hình sự được tìm thấy tại các Điều 82-88 và 99-108 của Công ước Geneva thứ ba.
Những quy định bảo đảm xét xử công bằng cho cư dân trong lãnh thổ bị chiếm đóng được tìm thấy tại các Điều 64-78 của Công ước Geneva thứ tư. Các quyền của người nước ngoài trong lãnh thổ bị chiếm đóng được quy định tại các Điều 35-46 và quyền của những thường dân tạm trú được quy định tại các Điều 79-141.
32.1.4 Xung đột vũ trang phi quốc tế
Các quy định chính của luật nhân đạo quốc tế về quyền được xét xử công bằng trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế được tìm thấy tại Điều 3 ở tất cả bốn Công ước Geneva và Điều 6 của Nghị định thư II.
Điều chung 3 ap dụng cho xung đột vũ trang “không mang tính quốc tế” và các quy định của nó áp dụng cho “một người không có vai trò tích cực trong chiến sự, bao gồm các thành viên của lực lượng vũ trang những người đã hạ súng và những người không thể chiến đấu được do bệnh tật, thương tật, bị bắt hoặc các nguyên nhân khác”.
Nghị định thư II, bổ sung và phát triển, nhưng không hạn chế Điều 3, có một phạm vi hạn chế hơn. Điều 1 quy định rằng nó được áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang với sự tham chiến của “lực lượng quân sự đối lập hoặc các nhóm vũ trang có tổ chức” mà kiểm soát lãnh thổ ” để cho phép chúng thực hiện các hoạt động quân sự phối hợp và duy trì liên tục và để thực hiện Nghị định thư này”. Dưới Điều 2, Nghị định thư II không “áp dụng cho các tình huống rối loạn và căng thẳng nội bộ như bạo loạn, bạo lực lẻ tẻ và hành vi có tính chất tương tự nhưng không phải là xung đột vũ trang”.
32.1.5 Quyền được xét xử công bằng
Khi không có quy định rõ ràng về khía cạnh cụ thể của quyền được xét xử công bằng trong một hiệp ước luật nhân đạo quốc tế, điều đó không có nghĩa là luật nhân đạo quốc tế đó cho phép khía cạnh đó bị vi phạm. Những bảo đảm về quyền được xét xử công bằng được diễn giải rộng để kết hợp đầy đủ với các bảo đảm xét xử công bằng hiện tại, và chúng quy định cụ thể những yêu cầu tối thiểu để được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh.
Mặc dù nghĩa vụ để đảm bảo xét xử công bằng áp dụng công bằng cho các quốc gia và các nhóm vũ trang đối lập, trong phần lớn các trường hợp các nhóm đó không có các toà án có thẩm quyền, độc lập và vô tư để đảm bảo xét xử công bằng, vì vậy họ sẽ chỉ thỏa mãn nghĩa vụ này bằng cách trao kẻ tình nghi cho tòa án hình sự quốc tế hoặc một nhà nước thực hiện quyền tài phán phổ quát.
Điều chung 3 của các Công ước Geneva
(các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế; nguyên tắc áp dụng cho tất cả các cuộc xung đột vũ trang)
“… Những người không đóng vai trò tích cực trong chiến sự, bao gồm các thành viên của lực lượng vũ trang đã hạ vũ khí và những người không tham gia chiến đấu do bệnh tật, bị thương, bị giam giữ, hoặc bất kỳ lý do khác, nên được đối xử nhân đạo mà không bị phân biệt đối xử do chủng tộc, màu da, tôn giáo hay đức tin, giới tính hay bất kỳ tiêu chí tương tự khác.
Các hành vi sau đây đối với những người kể trên bị nghiêm cấm ở bất kỳ thời gian và ở bất cứ nơi nào
(a) bạo lực với cuộc sống và con người, cụ thể là giết người các loại, chèn ép và đối xử tàn bạo và tra tấn;
(b) Bắt con tin;
(c) Xúc phạm đến phẩm giá cá nhân, cụ thể là sỉ nhục và hạ nhục;
(d) Kết án và xử tử mà không có phán xét của toà án hợp pháp có đầy đủ các bảo đảm tư pháp được công nhận là thiết yếu của các dân tộc văn minh … ”
Nghị định thư I, Điều 75
(được áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế)
“Không có bản án nào có thể được thông qua và không có hình phạt tử hình nào áp dụng cho một người bị cho là phạm tội liên quan đến xung đột vũ trang trừ bản án đã được tuyên bởi một toà án hợp pháp tôn trọng các nguyên tắc chung của trình tự tư pháp chung… ”
Nghị định thư II, Điều 6
(được áp dụng trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế)
“Không có bản án nào có thể được thông qua và không có hình phạt tử hình nào áp dụng cho một người bị cho là phạm tội liên quan đến xung đột vũ trang trừ bản án đã được tuyên bởi một toà án có những bảo đảm về độc lập và vô tư… ”
Trong các cuộc xung đột vũ trang quốc tế, Điều 75 của Nghị định thư I đòi hỏi xét xử người dân bởi một trong các bên trong cuộc xung đột phải được tiến hành bởi một toà án hợp pháp mà tôn trọng các nguyên tắc chung về thủ tục tư pháp thông thường “.
Điều 75 của Nghị định thư I chứa một danh sách không đầy đủ các điều khoản bảo đảm xét xử công bằng. Một được diễn đạt một cách rộng rãi, như phần a của Điều 75 yêu cầu thủ tục “sẽ cho phép kẻ bị buộc tội đủ quyền và phương tiện để bào chữa trước và trong phiên toà”.
Đối với thường dân sống trong lãnh thổ bị chiếm đóng trong một xung đột vũ trang quốc tế, Điều 71 của Công ước Geneva thứ 4 quy định “không một bản án nào được tuyên bởi các toà án của lực lượng chiếm đóng trừ phi bởi một toà án thông thường”.
Trong các cuộc xung đột vũ trang phi quốc tế, Điều chung 3 yêu cầu các xét xử phải cho phép các bảo đảm tư pháp mà được công nhận là nhu cầu cần thiết của các dân tộc văn minh”. Điều 6 của Nghị định thư II đòi hỏi toà án phải cung cấp “sự bảo đảm cần thiết về tính độc lập và vô tư” và chứa một danh sách ngắn không đầy đủ những bảo đảm.
32.1.6 Không đối xử phân biệt
Luật nhân đạo quốc tế có hai loại quy định không phân biệt đối xử liên quan đến xét xử. Những người bị giữ bởi một bên trong cuộc xung đột vũ trang quốc tế có thể không bị tước quyền được đảm bảo cho các thành viên hoặc lực lượng hoặc công dân của bên đó. Điều này có nghĩa là tù binh chiến tranh không thể phải chịu sự trừng phạt cho cáo buộc hình sự, những tội không áp dụng cho các nhân viên quân sự của bên bắt giữ. Tù binh chiến tranh phải được xét xử bởi cùng một toà án và theo cùng một trình tự như toà xét xử nhân viên của quốc gia bắt giữ, và không bị kết án với mức án nặng hơn. (Xem phần 32.4.1 dưới đây)
Ngoài ra, theo điều ước và phong tục luật nhân đạo quốc tế, đối xử phân biệt bị cấm trong mọi cuộc chiến, cả xung đột vũ trang quốc tế và phi quốc tế, trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, quốc gia hay nguồn gốc xã hội, sự giàu có hoặc bất kỳ tiêu chí nào khác.
32.1.7 Thời hạn bảo vệ
Quy định xét xử công bằng của luật nhân đạo quốc tế áp dụng trong một số trường hợp sau khi đã ngừng chiến sự. Sự bảo đảm xét xử công bằng trong Nghị định thư I cho những người bị bắt, bị giam giữ bởi những lý do liên quan đến cuộc xung đột vũ trang quốc tế kéo dài “cho đến khi được trả tự do, hồi hương hoặc tái lập, thậm chí sau khi kết thúc cuộc xung đột vũ trang”.
Quyền được xét xử công bằng của thường dân trong lãnh thổ bị chiếm đóng được áp dụng từ khi bắt đầu của bất kỳ cuộc xung đột nào hoặc chiếm đóng cho đến một năm sau khi ngừng các hoạt động quân sự. Ngoài ra, lực lượng chiếm bị ràng buộc, trong thời gian chiếm đóng, phải thực hiện các đảm bảo xét xử công bằng. Trong bất cứ sự kiện nào, “người được bảo vệ mà việc trả tự do, hồi hương hoặc tái lập có thể thực hiện, thì tiếp tục được hưởng lợi bởi Công ước hiện tại này.”
Sự bảo đảm xét xử công bằng tại Điều 6 của Nghị định thư II tiếp tục áp dụng vào cuối cuộc xung đột vũ trang nội bộ cho những người bị tước đoạt tự do, hoặc những người bị hạn ché tự do vì lý do liên quan đến cuộc xung đột.
Đón đọc phần 2 của Chương cuối cùng 32
Xem các phần khác tại đây.