Bản dịch của [rollinglinks]Vũ Quốc Ngữ[/rollinglinks]
(Defend the Defenders)
Nguồn: Amnesty International
Tất cả những người bị cáo buộc thực hiện các hành vi hình sự có quyền được tự bào chữa hoặc bào chữa thông qua luật sư. Họ có quyền được hỗ trợ bởi một luật sư mà họ lựa chọn, hoặc có một luật sư có thẩm quyền được chỉ định để hỗ trợ họ nếu cần thiết vì lợi ích của công lý, miễn phí nếu họ không có khả năng chi trả. Họ có quyền giao tiếp bí mật với luật sư của họ.
Chương 20 -Quyền tự bào chữa hoặc nhờ trợ giúp pháp lý
20.1 Quyền tự bảo vệ
20. Những hạn chế cho phép trong quyền đại diện cho chính mình
20.3 Quyền được nhận hỗ trợ tư pháp
20.3.1 Quyền chọn người bào chữa
20.3.2 Quyền có luật sư biện hộ chỉ định; quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí
20.4 Quyền giao tiếp bí mật với luật sư
20.5 Quyền được bào chữa có thẩm quyền và hiệu quả
20.6 Việc cấm quấy rối và đe dọa luật sư
____________________
20.1 Quyền tự bào chữa
Tất cả những người bị buộc tội hình sự có quyền bào chữa chống lại những cáo buộc.
Quyền bảo vệ chính mình có thể được thực hiện bằng cách bị cáo đại diện cho chính mình hoặc thông qua sự hỗ trợ của một luật sư, mặc dù bị cáo có thể không hoàn toàn tự do được lựa chọn hai hình thức bảo vệ này. (Xem phần 2 dưới đây về các hạn chế về quyền đại diện cho chính mình)
Tất cả các cá nhân bị cáo buộc tội hình sự phải được thông báo về quyền bào chữa của họ. Thông báo phải được đủ xa trước phiên tòa để cho phép người bị cáo buộc có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị việc bào chữa. (Xem Chương 2 phần 2 mục 1- Thông báo quyền nhận tư vấn pháp lý trước phiên tòa)
Quyết định của một người về việc từ bỏ quyền đại diện pháp lý, bao gồm cả trong quá trình thẩm vấn, phải được thiết lập một cách rõ ràng và kèm theo biện pháp bảo vệ thích hợp. (Xem Chương 3 phần 7- Từ bỏ quyền nhận tư vấn pháp lý)
ICCPR, Điều 14
“Trong việc xác định bất kỳ tội hình sự chống lại một người, mọi cá nhân sẽ được hưởng những
đảm bảo tối thiểu sau, trong sự bình đẳng:
(d) Được hiện diện trong phiên tòa, và được trực tiếp bảo vệ mình hoặc thông qua trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo, nếu không có sự trợ giúp pháp lý do mình lựa chọn, thì được trợ giúp pháp lý từ luật sư chỉ định, và không phải trả chi phí nếu không có khả năng chi trả.”
Khi bị cáo quyết định không tự đại diện cho chính mình, có quyền được luật sư đại diện. Khi đã lựa chọn để được nhận sự hỗ trợ tư vấn pháp lý, bị cáo vẫn có thể tự bào chữa.
Để đảm bảo quyền được bào chữa, bị cáo và luật sư bào chữa, nếu có, phải có đủ thời gian và cơ sở vật chất cũng như thông tin để chuẩn bị cho việc bào chữa (xem Chương 8). Bị cáo và luật sư của họ phải có quyền có mặt tại phiên tòa, và phiên xét xử là cuộc điều trần bằng miệng (xem Chương 21). Hơn nữa, nguyên tắc bình đẳng của các bên phải được tôn trọng, trong đó có quyền trình bày (xem chương 13 phần 2- Quyền bình đẳng giữa các bên) và gọi nhân chứng. (xem Chương 22)
Tòa án châu Âu đã tuyên bố rằng việc bị cáo đang bị giam giữ chờ xét xử, các điều kiện giam giữ, bao gồm cả trong các tòa án, không được cản trở việc chuẩn bị bào chữa của bị cáo. (Xem Chương 10)
Ủy ban châu Phi kết luận rằng giới hạn việc nhận tư vấn pháp lý vi phạm quyền tự bảo vệ được nếu trong Điều 7 của Hiến chương châu Phi.
Phiên tòa mà bị cáo và luật sư bào chữa không có quyền có mặt hoặc kiểm tra các nhân chứng vi phạm các quyền được xét xử công khai và quyền được tự bảo vệ trực tiếp hoặc thông qua luật sư.
20.2 Những giới hạn cho phép về quyền được đại diện chính mình
Quyền đại diện chính mình trong phiên tòa sơ thẩm hoặc tòa phúc thẩm không phải là tuyệt đối.
Nó có thể bị hạn chế khi tòa án xác định rằng, trong trường hợp cụ thể, vì lợi ích của công lý, đòi hỏi phải có sự phân công của luật sư chống lại mong muốn của bị cáo. Ví dụ hạn chế như vậy có thể được thực hiện nếu bị cáo phải đối mặt với những cáo buộc đặc biệt nghiêm trọng và tòa án xác định rằng bị cáo không có khả năng hành động vì lợi ích riêng của mình; hoặc khi, bất chấp cảnh báo từ tòa án, bị cáo liên tục và cản trở đáng kể hoặc phá vỡ các hành vi thích hợp của phiên toà; hoặc trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhân chứng, người dễ bị tổn thương từ việc đe dọa nếu bị bị cáo chất vấn.
Hạn chế về việc đại diện chính mình, tuy nhiên, không phải đi xa hơn những gì là cần thiết để duy trì các lợi ích của công lý và pháp luật không nên hoàn toàn ngăn cản việc tự bào chữa trong tố tụng hình sự.
20.3 Quyền được hỗ trợ pháp lý
Sự hỗ trợ pháp lý là một phương tiện chính để bảo vệ quyền con người của những người bị cáo buộc phạm tội, cụ thể là quyền được xét xử công bằng. Có hoặc không có sự hỗ trợ pháp lý của một luật sư thường được xác định bởi khả năng bị cáo có thể tham dự vào trình tự tố tụng một cách có ý nghĩa.
Tất cả những người bị cáo buộc thực hiện các hành vi phạm tội hình sự có quyền được trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền của họ và bào chữa cho họ.
Quyền nhận trợ giúp pháp lý được áp dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn điều tra sơ bộ, trước và trong phiên tòa, và kháng cáo. (Xem Chương 2 phần 2 mục 1- Thông báo về quyền tư vấn pháp lý, và Chương 3- Quyền tư vấn pháp lý trước phiên tòa). Nó cũng có thể được yêu cầu để đòi khắc phục sai sót theo hiến pháp.
Ủy ban Nhân quyền kết luận rằng các quyền được trợ giúp pháp lý đã bị vi phạm khi một thẩm phán cho phép hai nhân chứng bên công tố làm chứng tại phiên điều trần sơ bộ trong khi luật sư bào chữa đã không có mặt. Ủy ban cũng đưa ra quan ngại về một quy định cấm đại diện pháp lý tại các tòa án phong tục ở Botswana.
Ủy ban châu Phi kết luận rằng quyền được tư vấn pháp lý đã bị vi phạm khi một tòa án không hoãn phiên tòa hoặc chỉ định luật sư thay thế để đại diện cho bị cáo khi luật sư bào chữa, người đã đưa ra một bản bào chữa cho bị cáo, lại không có mặt tại phiên tòa trong ngày đưa ra phán quyết cuối cùng với bản án tử hình. (Xem Chương 28- Các trường hợp án tử hình)
Quyền có luật sư đại diện áp dụng ngay cả khi bị cáo chọn không xuất hiện tại thủ tục tố tụng hoặc vắng mặt vì lý do khác. (Xem Chương 21- Quyền được đại diện và phiên tòa vắng mặt, và Chương 56 phần 5- Những bảo đảm xét xử công bằng trong phiên phúc thẩm)
Quyền được bảo vệ bởi luật sư cũng bao gồm quyền tiếp cận và giao tiếp bí mật với luật sư, quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị việc bào chữa, và quyền được trợ giúp bởi luật sư của mình hoặc luật sư chỉ định.
20.3.1 Quyền chọn tư vấn pháp lý để bào chữa
Do tầm quan trọng của niềm tin và sự tự tin giữa bị cáo và luật sư của họ, bị cáo có quyền lựa chọn người sẽ đại diện cho họ.
Các nguyên tắc về xét xử công bằng ở châu Phi nêu rõ rằng một cơ quan tư pháp có thể không chỉ định một luật sư để đại diện cho bị cáo nếu luật sư mà bị cáo đã lựa chọn có mặt.
Quyền được luật sư đại diện của sự lựa chọn đã bị vi phạm trong các trường hợp cáo buộc liên quan đến chính trị và khủng bố.
Ủy ban châu Phi kết luận rằng các quyền của một người thuộc bên dân sự và năm sĩ quan quân đội đã bị vi phạm khi họ đã bị từ chối quyền được bào chữa bởi luật sư do họ lựa chọn, và mặc cho sự phản đối của họ, tòa đã chỉ định luật sư quân sự trẻ để đại diện cho họ trước một tòa án quân sự đặc biệt.
Tuy nhiên quyền được luật sư đại diện của sự lựa chọn không phải là tuyệt đối.
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư
Nguyên tắc 1
“Tất cả mọi người có quyền kêu gọi sự giúp đỡ của một luật sư mà họ lựa chọn để bảo vệ và
thiết lập các quyền của họ và để bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự”.
Phải có cơ sở hợp lý và khách quan để hạn chế quyền được nhận trợ giúp pháp lý, những hạn chế này có thể bị thách thức trước tòa án. Hạn chế có thể được áp dụng, ví dụ, nếu luật sư không hoạt động trong phạm vi đạo đức nghề nghiệp, là đối tượng của tố tụng hình sự hoặc từ chối tuân theo thủ tục tòa án.
Một bị cáo có thể không có một quyền không hạn chế để lựa chọn luật sư chỉ định, đặc biệt là nếu nhà nước trả tiền chi phí. Tòa án châu Âu đã tuyên bố rằng khi bổ nhiệm luật sư bào chữa các tòa án phải xem xét mong muốn của bị cáo.
Ủy ban Nhân quyền đã chỉ ra rằng tòa án nên ưu tiên cho việc chấp nhận luật sư được lựa chọn bởi các bị cáo trong trường hợp hình phạt tử hình, kể cả trong phiên phúc thẩm để bảo đảm trợ giúp pháp lý đầy đủ và hiệu quả là nhu.
Tương tự như vậy, Ủy ban châu Phi nói rằng ngay cả trong trường hợp luật sư được chỉ định miễn phí, và đặc biệt là trong các vụ án mà các bị cáo có thể đối mặt với một bản án tử hình, “các bị cáo có thể chọn ra một danh sách các luật sư độc lập theo ý mình, những luật sư sẽ không hành động theo các hướng dẫn của chính phủ mà chỉ chịu trách nhiệm cho bị can”. Ủy ban nhấn mạnh nguy cơ bị cáo có thể không cung cấp mọi thông tin cho luật sư vì họ không tin tưởng. (Xem Chương 28- Các trường hợp án tử hình)
20.3.2 Quyền được nhận trợ giúp pháp lý từ luật sư chỉ định, quyền được nhận trợ giúp pháp lý miễn phí
Những cá nhân không có luật sư do họ lựa chọn để đại diện có thể nhận trợ giúp pháp lý từ luật sư chỉ định.
Theo Điều 8 của Công ước Mỹ, quyền được nhận tư vấn pháp lý từ luật sư chỉ định là nghiễm nhiên nếu bị cáo không tự bào chữa hoặc không thu xếp được luật sư bảo vệ trong thời hạn do luật quy định.
Tuy nhiên, các tiêu chuẩn quốc tế khác đảm bảo quyền có luật sư chỉ định khi lợi ích của công lý yêu cầu như vậy.
Việc xác định lợi ích của công lý đòi hỏi luật sư được chỉ định chủ yếu dựa vào mức độ nghiêm trọng của cáo buộc, hình phạt có thể được áp đặt, và sự phức tạp của các vấn đề hoặc thủ tục. Nó cũng có thể phụ thuộc vào những điểm yếu của bị cáo do các yếu tố như tuổi tác, sức khỏe, tàn tật hoặc bất lợi kinh tế hoặc xã hội. Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng của các bên cũng nên được xem xét. (Xem Chương 13 phần 2)
Lợi ích của công lý yêu cầu tư vấn được chỉ định ở tất cả các giai đoạn tố tụng trong trường hợp hình phạt tử hình nếu bị cáo không có luật sư của sự lựa chọn.
Theo các nguyên tắc Trợ giúp pháp lý, nhà nước phải đảm bảo rằng bất cứ ai bị bắt, giam giữ, nghi ngờ hoặc bị buộc tội hình sự mà có thể bị phạt tù được hưởng trợ giúp pháp lý ở tất cả các giai đoạn của quá trình tư pháp hình sự. Ngoài ra, nếu lợi ích của công lý đòi hỏi, ví dụ cho sự cấp bách hoặc phức tạp của vụ án, trợ giúp pháp lý cần được cung cấp bất kể vị trí của người bị cáo buộc.
Tòa án châu Âu cũng đã kết luận rằng khi một người có thể bị tước đoạt tự do, lợi ích của công lý, về nguyên tắc, yêu cầu đại diện pháp lý.
Đã có mối quan ngại về những hệ thống chỉ cung cấp trợ giúp pháp lý miễn phí trong trường hợp hình phạt tử hình cũng như các hệ thống chỉ cung cấp nếu bị cáo đối mặt với án vượt quá năm năm tù giam.
Ủy ban Nhân quyền đã kết luận rằng trợ giúp pháp lý theo quy định của hiến pháp, bao gồm cả sau một bản án, phải có sẵn để bảo vệ công lý. Những thủ tục tố tụng như thế không xác định cáo buộc hình sự nhưng phán quyết về các vấn đề hiến pháp, bao gồm cả các vấn đề liên quan đến sự công bằng trong xét xử.
Theo một số tiêu chuẩn quốc tế, nhà nước cần cung cấp tư vấn miễn phí nếu hai điều kiện được đáp ứng. Đầu tiên là lợi ích của công lý yêu cầu tư vấn được chỉ định. Thứ hai là bị cáo không có khả năng chi trả cho luật sư bào chữa.
Các tiêu chuẩn khác
Hiến chương Ả rập đảm bảo quyền hỗ trợ pháp lỹ miễn phí nếu bị cáo không thể tự bào chữa
hoặc nếu lợi ích của công lý đòi hỏi.
Trong khi Công ước châu Mỹ yêu cầu nhà nước chi trả cho luật sư chỉ địnhTòa án liên Mỹ đã làm rõ rằng các quốc gia phải cung cấp tư vấn miễn phí nếu điều này là cần thiết để đảm bảo một phiên tòa công bằng.
Các nguyên tắc về trợ giúp pháp lý nói rằng trợ giúp pháp lý phải được cấp cho những người có khó khăn về tài chính, và cả những người không thể vượt qua bài kiểm tra xác định khả năng tài chính, nhưng không có khả năng hoặc không được tiếp cận với một luật sư, trong đó lợi ích của công lý đòi hỏi và trợ giúp pháp lý nếu không sẽ đã được cấp. (Xem Chương 27.6.3 trợ giúp pháp lý cho trẻ em.)
Các quốc gia phải có đủ nguồn lực để đảm bảo việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho những người bị cáo buộc vi phạm hình sự. Đây là điều cần thiết để đảm bảo quyền được xét xử công bằng mà không bị phân biệt đối xử, quyền bình đẳng trước tòa án, quyền tự bào chữa của những người bị buộc tội và nguyên tắc bình đẳng của các bên trong một phiên tòa.
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của các luật sư, Nguyên tắc 3
“Chính phủ nên đảm bảo cung cấp đủ kinh phí và các nguồn lực khác cho dịch vụ pháp lý cho người nghèo và, nếu cần, cho những bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Các hội nghề nghiệp của luật sư nên hợp tác trong việc tổ chức và cung cấp dịch vụ, thiết bị và các nguồn lực khác. “
Nếu xác định khả năng tài chính thì:
• trợ giúp pháp lý sơ bộ phải được cấp cho các cá nhân đòi hỏi được trợ giúp pháp lý khẩn cấp trong khi chờ đợi kết quả của việc xác định khả năng tài chính;
• Tài chính của cá nhân, chứ không phải là thu nhập của hộ gia đình, là nền tảng của việc xác định khả năng tài chính nếu các thành viên gia đình mâu thuẫn hoặc không có sự bình đẳng giữa các cá nhân trong gia đình;
• Một người bị từ chối trợ giúp pháp lý trên cơ sở xác định khả năng tài chính có quyền kháng cáo quyết định.
Pháp luật yêu cầu bị cáo phải trả lại chi phí trợ giúp pháp lý nếu trường hợp bị bị thua không phù hợp với quyền được nhận tư vấn pháp lý.
Toà án phải đảm bảo rằng các bị cáo và luật sư chỉ định của họ có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị việc bào chữa. (Xem Chương 8)
Quyền nhận trợ giúp pháp lý của những người không có đủ nguồn tài chính được quy định tại Điều 13 của Điều lệ Ả Rập, áp dụng mọi lúc, kể cả trong trường hợp khẩn cấp. Quyền này cũng được đảm bảo theo luật nhân đạo quốc tế, áp dụng trong thời gian có xung đột vũ trang. (Xem Chương 31- Về tình trạng khẩn cấp và Chương 32 – Về xung đột vũ trang)
20.4 Quyền mật thông với luật sư
Quyền giao tiếp với luật sư là một phần của quyền được nhânh tư vấn pháp lý. Nó được quy định rõ ràng trong một số các tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị bào chữa, quyền của bị cáo để tự bào chữa.
Giao tiếp giữa bị cáo và luật sư trong mối quan hệ chuyên nghiệp đều được giữ kín. Các nhà chức trách phải đảm bảo rằng nội dung giao tiếp giữa họ được giữ bí mật. (Xem Chương 27 phần 6 mục 3- về bảo mật của thông tin liên lạc giữa các luật sư và trẻ em bị buộc tội)
Quyền liên lạc với luật sư theo ICCPR và Công ước châu Âu bao gồm quyền thông tin bảo mật, mặc dù điều này không quy định rõ ràng trong cả hai hiệp ước. Tòa án châu Âu cho rằng quyền của bị cáo liên lạc với luật sư của mình một cách bí mật là một phần của các yêu cầu cơ bản của một phiên tòa công bằng.
Chính quyền phải cung cấp đủ thời gian và cơ sở vật chất cho một bị cáo đang bị giam giữ để gặp gỡ và trao đổi thông tin liên lạc bí mật với luật sư của họ, bao gồm cả gặp mặt trực tiếp, qua điện thoại và bằng văn vản viết. Các cuộc gặp mặt hoặc cuộc gọi điện thoại có thể diễn ra trong tầm mắt, nhưng không phải trong tầm nghe của người giám sát. (Xem Chương 3 phần 6 mục 1- Quyền thông tin bảo mật với luật sư)
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của các luật sư, Nguyên tắc 22
“Các chính phủ công nhận và tôn trọng tất cả các thông tin liên lạc và tham vấn giữa luật sư và khách hàng của họ và mối quan hệ chuyên nghiệp của họ đều được giữ kín”.
Người bị tạm giam nên có quyền giữ tài liệu liên quan đến trường hợp của họ.
Báo cáo viên đặc biệt về tính độc lập của thẩm phán và luật sư cũng đã nhấn mạnh rằng các tập tin và các văn bản của luật sư cần được bảo vệ chống lại việc bị thu giữ hoặc kiểm tra, thông tin liên lạc, bao gồm cả các cuộc gọi điện thoại và thông tin liên lạc điện tử khác, không nên bị nghe trộm và đọc trộm.
Tòa án châu Âu đã cho rằng việc kiểm tra thường xuyên trao đổi thư từ giữa một tù nhân và luật sư của mình đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng của cánh tay và bị xói mòn đáng kể quyền quốc phòng. Nó nói lạc này với các luật sư, bất cứ điều gì mục đích của nó, luôn luôn là đặc quyền và rằng: “đọc thư của một tù nhân đến và đi từ một luật sư chỉ cho phép trong trường hợp đặc biệt, khi các nhà chức trách có lý do hợp lý để tin rằng các đặc quyền đang bị ngược đãi, trong đó các nội dung của thư gây nguy hiểm cho an ninh nhà tù hoặc sự an toàn của người khác hoặc là nếu không có tính chất hình sự “.
Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về quyền con người và chống khủng bố đã bày tỏ lo ngại về những vi phạm quyền bí mật thông tin liên lạc giữa các cá nhân bị buộc tội khủng bố và luật sư của họ, cả trong quá trình giam giữ trước khi xét xử và trong thời gian xét xử.
Tòa án liên Mỹ kết luận rằng thực tế là bị cáo buộc tội khủng bố là không thể giao tiếp một cách cởi mở và riêng tư với luật sư của mình đã vi phạm Điều 8 của Công ước châu Mỹ.
Tòa án châu Âu đã cho rằng trong trường hợp đặc biệt, tính bảo mật của thông tin liên lạc có thể bị hạn chế một cách hợp pháp. Tuy nhiên nó nói rằng bất kỳ hạn chế nào phải tuân theo quy định của pháp luật và theo yêu cầu của một thẩm phán. Chúng phải tương ứng với một mục đích hợp pháp – chẳng hạn như để ngăn chặn tội phạm nghiêm trọng liên quan đến tử vong hoặc chấn thương – và phải kèm theo biện pháp bảo vệ đầy đủ chống lại sự lạm dụng. Tiêu chuẩn không hiệp ước của Hội đồng châu Âu, trong đó có quy nhà tù châu Âu, dựa trên luật học này.
Tòa án châu Âu đã phân tích những hạn chế về tính bảo mật của thông tin liên lạc với luật sư trong thực tế. Hạn chế đó phải là ngoại lệ, theo quy định của pháp luật, cần thiết và tương xứng để đạt được một mục tiêu hợp pháp, và đi kèm với biện pháp bảo vệ đầy đủ chống lại sự lạm dụng. Nó kết luận rằng việc xem xét thư từ trao đổi giữ bị cáo và luật sư là hợp lý nếu vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và phòng chống tội phạm. Có những biện pháp sau đây để chống lại sự lạm dụng: thư từ được xem bởi một thẩm phán không liên quan đến vụ án, và có bổn phận phải giữ bí mật thông tin thu được.
Quyền thông tin liên lạc bí mật giữa một cá nhân và luật sư của họ không chấm dứt khi có phán quyết cuối cùng.
Ủy ban Nhân quyền bày tỏ quan ngại rằng ở Nhật Bản, các cuộc gặp giữa các cá nhân bị kết án tử và luật sư của họ về yêu cầu phúc thẩm được giám sát bởi các quan chức nhà tù cho đến khi tòa án có quyết định xem xét lại trường hợp.
Thông tin liên lạc giữa một người bị bắt giữ hoặc bị bỏ tù và luật sư của họ là không thể chấp nhận làm bằng chứng trừ khi chúng được kết nối với một tội phạm tiếp tục hoặc dự tính sau đó.
(Xem Chương 17phần 3- Việc loại trừ các bằng chứng thu được từ thông tin liên lạc bí mật với luật sư và Chương 3 phần 6 mục 1- Về giao tiếp bí mật với luật sư trước phiên tòa)
20.5 Quyền được nhận trợ giúp pháp lý
Luật sư bào chữa, bao gồm cả luật sư chỉ định, phải hành động một cách tự do và siêng năng phù hợp với các tiêu chuẩn và đạo đức của nghề luật sư pháp luật và được công nhận. Họ phải khuyến cáo khách hàng về quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ, và thông báo cho họ về hệ thống pháp luật. Họ phải hỗ trợ khách hàng của họ bằng mọi cách thích hợp, hành động như là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng và hỗ trợ khách hàng của họ trước tòa án. Trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng và trong việc thúc đẩy công lý, luật sư phải tìm cách duy trì quyền con người được công nhận bởi luật pháp quốc gia và quốc tế.
Ủy ban liên Mỹ cho rằng quyền được nhận trợ giúp pháp lý bị vi phạm khi luật sư không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ khách hàng của họ.
Khi bị cáo có luật sư chỉ định đại diện, các cơ quan chức phải đảm bảo rằng các luật sư được chỉ định có đào tạo cần thiết, kỹ năng, kinh nghiệm và năng lực cho các trường hợp.
Các cơ quan có trách nhiệm đặc biệt để đảm bảo rằng các bị cáo được nhận sự trợ giúp pháp lý có hiệu quả từ luật sư chỉ định. Các quốc gia chịu trách nhiệm nếu họ không cung cấp trợ giúp pháp lý. Nếu luật sư chỉ định không hoạt động hiệu quả, tòa án hoặc nhà chức trách phải thay bằng luật sư khác. (Xem Chương 28 phần 6 mục 1- Quyền nhận tư vấn hiệu quả trong các trường hợp án tử hình)
Tòa án liên Mỹ kết luận rằng nhà nước đã vi phạm quyền nhận trợ giúp pháp lý của bị cáo luật sư trong trường hợp luật sư chỉ định vắng mặt trong buổi thẩm vấn của bị cáo và trong hầu hết khai nhận của bị cáo trước khi xét xử.
Trong trường hợp một luật sư đại diện cho bị cáo kháng cáo, hỗ trợ hiệu quả sẽ bao gồm việc luật sư tư vấn bị cáo nếu luật sư có ý định rút kháng cáo, hoặc cho rằng nó không có cơ hội.
Tầm quan trọng của luật sư có thẩm quyền, giàu kinh nghiệm, có tay nghề và hiệu quả trong trường hợp bị cáo nhận hình phạt tử hình đã được nhiều lần nhấn mạnh bởi các cơ quan nhân quyền và tòa án (xem Chương 28 phần 6 mục 1- Quyền nhận trợ giúp pháp lý hiệu quả trong trường hợp hình phạt tử hình)
20.6 Cấm quấy rối và đe dọa luật sư
Luật sư có thể tư vấn và đại diện cho mọi người một cách không có hạn chế, không bị ảnh hưởng, áp lực hoặc can thiệp không đúng cách từ bất kỳ phía nào.
Luật sư nên được miễn trừ hình sự theo luật hình sự và dân sự đối với tuyên bố bằng miệng và bằng văn bản trước tòa án. Họ không nên bị trừng phạt đối với bất kỳ hành động phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn được công nhận, tiêu chuẩn và đạo đức.
Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ các luật sư bị đe dọa do thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ủy ban Nhân quyền đã làm rõ rằng Điều 14 của ICCPR bị vi phạm khi Toà án hoặc chính quyền cản trở luật sư chỉ định thực hiện công việc của họ hiệu quả.
Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về sự độc lập của thẩm phán và luật sư đã tăng mối lo ngại rằng các luật sư thường bị đe dọa. Nhiều luật sư bị điều tra hoặc truy tố về việc hỗ trợ bị hoặc phỉ báng. Một số luật sư cũng đã bị khởi tố vì đã tố cáo sự ngược đãi đối với bị cáo hoặc nêu lên sai sót của hệ thống tư pháp.
Hết Chương 20
Đón đọc Chương 21 Quyền có mặt tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm
Xem các chương trước tại Đây.
July 18, 2014
Trình tự Xét xử công minh (21)- Phần 2: Quyền con người trong phiên tòa- Chương 20 -Quyền tự bào chữa hoặc nhờ trợ giúp pháp lý
by Nhan Quyen • [Human Rights]
Bản dịch của [rollinglinks]Vũ Quốc Ngữ[/rollinglinks]
(Defend the Defenders)
Nguồn: Amnesty International
Chương 20 -Quyền tự bào chữa hoặc nhờ trợ giúp pháp lý
20.1 Quyền tự bảo vệ
20. Những hạn chế cho phép trong quyền đại diện cho chính mình
20.3 Quyền được nhận hỗ trợ tư pháp
20.3.1 Quyền chọn người bào chữa
20.3.2 Quyền có luật sư biện hộ chỉ định; quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí
20.4 Quyền giao tiếp bí mật với luật sư
20.5 Quyền được bào chữa có thẩm quyền và hiệu quả
20.6 Việc cấm quấy rối và đe dọa luật sư
____________________
20.1 Quyền tự bào chữa
Tất cả những người bị buộc tội hình sự có quyền bào chữa chống lại những cáo buộc.
Quyền bảo vệ chính mình có thể được thực hiện bằng cách bị cáo đại diện cho chính mình hoặc thông qua sự hỗ trợ của một luật sư, mặc dù bị cáo có thể không hoàn toàn tự do được lựa chọn hai hình thức bảo vệ này. (Xem phần 2 dưới đây về các hạn chế về quyền đại diện cho chính mình)
Tất cả các cá nhân bị cáo buộc tội hình sự phải được thông báo về quyền bào chữa của họ. Thông báo phải được đủ xa trước phiên tòa để cho phép người bị cáo buộc có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị việc bào chữa. (Xem Chương 2 phần 2 mục 1- Thông báo quyền nhận tư vấn pháp lý trước phiên tòa)
Quyết định của một người về việc từ bỏ quyền đại diện pháp lý, bao gồm cả trong quá trình thẩm vấn, phải được thiết lập một cách rõ ràng và kèm theo biện pháp bảo vệ thích hợp. (Xem Chương 3 phần 7- Từ bỏ quyền nhận tư vấn pháp lý)
ICCPR, Điều 14
“Trong việc xác định bất kỳ tội hình sự chống lại một người, mọi cá nhân sẽ được hưởng những
đảm bảo tối thiểu sau, trong sự bình đẳng:
(d) Được hiện diện trong phiên tòa, và được trực tiếp bảo vệ mình hoặc thông qua trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo, nếu không có sự trợ giúp pháp lý do mình lựa chọn, thì được trợ giúp pháp lý từ luật sư chỉ định, và không phải trả chi phí nếu không có khả năng chi trả.”
Khi bị cáo quyết định không tự đại diện cho chính mình, có quyền được luật sư đại diện. Khi đã lựa chọn để được nhận sự hỗ trợ tư vấn pháp lý, bị cáo vẫn có thể tự bào chữa.
Để đảm bảo quyền được bào chữa, bị cáo và luật sư bào chữa, nếu có, phải có đủ thời gian và cơ sở vật chất cũng như thông tin để chuẩn bị cho việc bào chữa (xem Chương 8). Bị cáo và luật sư của họ phải có quyền có mặt tại phiên tòa, và phiên xét xử là cuộc điều trần bằng miệng (xem Chương 21). Hơn nữa, nguyên tắc bình đẳng của các bên phải được tôn trọng, trong đó có quyền trình bày (xem chương 13 phần 2- Quyền bình đẳng giữa các bên) và gọi nhân chứng. (xem Chương 22)
Tòa án châu Âu đã tuyên bố rằng việc bị cáo đang bị giam giữ chờ xét xử, các điều kiện giam giữ, bao gồm cả trong các tòa án, không được cản trở việc chuẩn bị bào chữa của bị cáo. (Xem Chương 10)
Ủy ban châu Phi kết luận rằng giới hạn việc nhận tư vấn pháp lý vi phạm quyền tự bảo vệ được nếu trong Điều 7 của Hiến chương châu Phi.
Phiên tòa mà bị cáo và luật sư bào chữa không có quyền có mặt hoặc kiểm tra các nhân chứng vi phạm các quyền được xét xử công khai và quyền được tự bảo vệ trực tiếp hoặc thông qua luật sư.
20.2 Những giới hạn cho phép về quyền được đại diện chính mình
Quyền đại diện chính mình trong phiên tòa sơ thẩm hoặc tòa phúc thẩm không phải là tuyệt đối.
Nó có thể bị hạn chế khi tòa án xác định rằng, trong trường hợp cụ thể, vì lợi ích của công lý, đòi hỏi phải có sự phân công của luật sư chống lại mong muốn của bị cáo. Ví dụ hạn chế như vậy có thể được thực hiện nếu bị cáo phải đối mặt với những cáo buộc đặc biệt nghiêm trọng và tòa án xác định rằng bị cáo không có khả năng hành động vì lợi ích riêng của mình; hoặc khi, bất chấp cảnh báo từ tòa án, bị cáo liên tục và cản trở đáng kể hoặc phá vỡ các hành vi thích hợp của phiên toà; hoặc trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhân chứng, người dễ bị tổn thương từ việc đe dọa nếu bị bị cáo chất vấn.
Hạn chế về việc đại diện chính mình, tuy nhiên, không phải đi xa hơn những gì là cần thiết để duy trì các lợi ích của công lý và pháp luật không nên hoàn toàn ngăn cản việc tự bào chữa trong tố tụng hình sự.
20.3 Quyền được hỗ trợ pháp lý
Sự hỗ trợ pháp lý là một phương tiện chính để bảo vệ quyền con người của những người bị cáo buộc phạm tội, cụ thể là quyền được xét xử công bằng. Có hoặc không có sự hỗ trợ pháp lý của một luật sư thường được xác định bởi khả năng bị cáo có thể tham dự vào trình tự tố tụng một cách có ý nghĩa.
Tất cả những người bị cáo buộc thực hiện các hành vi phạm tội hình sự có quyền được trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền của họ và bào chữa cho họ.
Quyền nhận trợ giúp pháp lý được áp dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn điều tra sơ bộ, trước và trong phiên tòa, và kháng cáo. (Xem Chương 2 phần 2 mục 1- Thông báo về quyền tư vấn pháp lý, và Chương 3- Quyền tư vấn pháp lý trước phiên tòa). Nó cũng có thể được yêu cầu để đòi khắc phục sai sót theo hiến pháp.
Ủy ban Nhân quyền kết luận rằng các quyền được trợ giúp pháp lý đã bị vi phạm khi một thẩm phán cho phép hai nhân chứng bên công tố làm chứng tại phiên điều trần sơ bộ trong khi luật sư bào chữa đã không có mặt. Ủy ban cũng đưa ra quan ngại về một quy định cấm đại diện pháp lý tại các tòa án phong tục ở Botswana.
Ủy ban châu Phi kết luận rằng quyền được tư vấn pháp lý đã bị vi phạm khi một tòa án không hoãn phiên tòa hoặc chỉ định luật sư thay thế để đại diện cho bị cáo khi luật sư bào chữa, người đã đưa ra một bản bào chữa cho bị cáo, lại không có mặt tại phiên tòa trong ngày đưa ra phán quyết cuối cùng với bản án tử hình. (Xem Chương 28- Các trường hợp án tử hình)
Quyền có luật sư đại diện áp dụng ngay cả khi bị cáo chọn không xuất hiện tại thủ tục tố tụng hoặc vắng mặt vì lý do khác. (Xem Chương 21- Quyền được đại diện và phiên tòa vắng mặt, và Chương 56 phần 5- Những bảo đảm xét xử công bằng trong phiên phúc thẩm)
Quyền được bảo vệ bởi luật sư cũng bao gồm quyền tiếp cận và giao tiếp bí mật với luật sư, quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị việc bào chữa, và quyền được trợ giúp bởi luật sư của mình hoặc luật sư chỉ định.
20.3.1 Quyền chọn tư vấn pháp lý để bào chữa
Do tầm quan trọng của niềm tin và sự tự tin giữa bị cáo và luật sư của họ, bị cáo có quyền lựa chọn người sẽ đại diện cho họ.
Các nguyên tắc về xét xử công bằng ở châu Phi nêu rõ rằng một cơ quan tư pháp có thể không chỉ định một luật sư để đại diện cho bị cáo nếu luật sư mà bị cáo đã lựa chọn có mặt.
Quyền được luật sư đại diện của sự lựa chọn đã bị vi phạm trong các trường hợp cáo buộc liên quan đến chính trị và khủng bố.
Ủy ban châu Phi kết luận rằng các quyền của một người thuộc bên dân sự và năm sĩ quan quân đội đã bị vi phạm khi họ đã bị từ chối quyền được bào chữa bởi luật sư do họ lựa chọn, và mặc cho sự phản đối của họ, tòa đã chỉ định luật sư quân sự trẻ để đại diện cho họ trước một tòa án quân sự đặc biệt.
Tuy nhiên quyền được luật sư đại diện của sự lựa chọn không phải là tuyệt đối.
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư
Nguyên tắc 1
“Tất cả mọi người có quyền kêu gọi sự giúp đỡ của một luật sư mà họ lựa chọn để bảo vệ và
thiết lập các quyền của họ và để bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự”.
Phải có cơ sở hợp lý và khách quan để hạn chế quyền được nhận trợ giúp pháp lý, những hạn chế này có thể bị thách thức trước tòa án. Hạn chế có thể được áp dụng, ví dụ, nếu luật sư không hoạt động trong phạm vi đạo đức nghề nghiệp, là đối tượng của tố tụng hình sự hoặc từ chối tuân theo thủ tục tòa án.
Một bị cáo có thể không có một quyền không hạn chế để lựa chọn luật sư chỉ định, đặc biệt là nếu nhà nước trả tiền chi phí. Tòa án châu Âu đã tuyên bố rằng khi bổ nhiệm luật sư bào chữa các tòa án phải xem xét mong muốn của bị cáo.
Ủy ban Nhân quyền đã chỉ ra rằng tòa án nên ưu tiên cho việc chấp nhận luật sư được lựa chọn bởi các bị cáo trong trường hợp hình phạt tử hình, kể cả trong phiên phúc thẩm để bảo đảm trợ giúp pháp lý đầy đủ và hiệu quả là nhu.
Tương tự như vậy, Ủy ban châu Phi nói rằng ngay cả trong trường hợp luật sư được chỉ định miễn phí, và đặc biệt là trong các vụ án mà các bị cáo có thể đối mặt với một bản án tử hình, “các bị cáo có thể chọn ra một danh sách các luật sư độc lập theo ý mình, những luật sư sẽ không hành động theo các hướng dẫn của chính phủ mà chỉ chịu trách nhiệm cho bị can”. Ủy ban nhấn mạnh nguy cơ bị cáo có thể không cung cấp mọi thông tin cho luật sư vì họ không tin tưởng. (Xem Chương 28- Các trường hợp án tử hình)
20.3.2 Quyền được nhận trợ giúp pháp lý từ luật sư chỉ định, quyền được nhận trợ giúp pháp lý miễn phí
Những cá nhân không có luật sư do họ lựa chọn để đại diện có thể nhận trợ giúp pháp lý từ luật sư chỉ định.
Theo Điều 8 của Công ước Mỹ, quyền được nhận tư vấn pháp lý từ luật sư chỉ định là nghiễm nhiên nếu bị cáo không tự bào chữa hoặc không thu xếp được luật sư bảo vệ trong thời hạn do luật quy định.
Tuy nhiên, các tiêu chuẩn quốc tế khác đảm bảo quyền có luật sư chỉ định khi lợi ích của công lý yêu cầu như vậy.
Việc xác định lợi ích của công lý đòi hỏi luật sư được chỉ định chủ yếu dựa vào mức độ nghiêm trọng của cáo buộc, hình phạt có thể được áp đặt, và sự phức tạp của các vấn đề hoặc thủ tục. Nó cũng có thể phụ thuộc vào những điểm yếu của bị cáo do các yếu tố như tuổi tác, sức khỏe, tàn tật hoặc bất lợi kinh tế hoặc xã hội. Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng của các bên cũng nên được xem xét. (Xem Chương 13 phần 2)
Lợi ích của công lý yêu cầu tư vấn được chỉ định ở tất cả các giai đoạn tố tụng trong trường hợp hình phạt tử hình nếu bị cáo không có luật sư của sự lựa chọn.
Theo các nguyên tắc Trợ giúp pháp lý, nhà nước phải đảm bảo rằng bất cứ ai bị bắt, giam giữ, nghi ngờ hoặc bị buộc tội hình sự mà có thể bị phạt tù được hưởng trợ giúp pháp lý ở tất cả các giai đoạn của quá trình tư pháp hình sự. Ngoài ra, nếu lợi ích của công lý đòi hỏi, ví dụ cho sự cấp bách hoặc phức tạp của vụ án, trợ giúp pháp lý cần được cung cấp bất kể vị trí của người bị cáo buộc.
Tòa án châu Âu cũng đã kết luận rằng khi một người có thể bị tước đoạt tự do, lợi ích của công lý, về nguyên tắc, yêu cầu đại diện pháp lý.
Đã có mối quan ngại về những hệ thống chỉ cung cấp trợ giúp pháp lý miễn phí trong trường hợp hình phạt tử hình cũng như các hệ thống chỉ cung cấp nếu bị cáo đối mặt với án vượt quá năm năm tù giam.
Ủy ban Nhân quyền đã kết luận rằng trợ giúp pháp lý theo quy định của hiến pháp, bao gồm cả sau một bản án, phải có sẵn để bảo vệ công lý. Những thủ tục tố tụng như thế không xác định cáo buộc hình sự nhưng phán quyết về các vấn đề hiến pháp, bao gồm cả các vấn đề liên quan đến sự công bằng trong xét xử.
Theo một số tiêu chuẩn quốc tế, nhà nước cần cung cấp tư vấn miễn phí nếu hai điều kiện được đáp ứng. Đầu tiên là lợi ích của công lý yêu cầu tư vấn được chỉ định. Thứ hai là bị cáo không có khả năng chi trả cho luật sư bào chữa.
Các tiêu chuẩn khác
Hiến chương Ả rập đảm bảo quyền hỗ trợ pháp lỹ miễn phí nếu bị cáo không thể tự bào chữa
hoặc nếu lợi ích của công lý đòi hỏi.
Trong khi Công ước châu Mỹ yêu cầu nhà nước chi trả cho luật sư chỉ địnhTòa án liên Mỹ đã làm rõ rằng các quốc gia phải cung cấp tư vấn miễn phí nếu điều này là cần thiết để đảm bảo một phiên tòa công bằng.
Các nguyên tắc về trợ giúp pháp lý nói rằng trợ giúp pháp lý phải được cấp cho những người có khó khăn về tài chính, và cả những người không thể vượt qua bài kiểm tra xác định khả năng tài chính, nhưng không có khả năng hoặc không được tiếp cận với một luật sư, trong đó lợi ích của công lý đòi hỏi và trợ giúp pháp lý nếu không sẽ đã được cấp. (Xem Chương 27.6.3 trợ giúp pháp lý cho trẻ em.)
Các quốc gia phải có đủ nguồn lực để đảm bảo việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho những người bị cáo buộc vi phạm hình sự. Đây là điều cần thiết để đảm bảo quyền được xét xử công bằng mà không bị phân biệt đối xử, quyền bình đẳng trước tòa án, quyền tự bào chữa của những người bị buộc tội và nguyên tắc bình đẳng của các bên trong một phiên tòa.
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của các luật sư, Nguyên tắc 3
“Chính phủ nên đảm bảo cung cấp đủ kinh phí và các nguồn lực khác cho dịch vụ pháp lý cho người nghèo và, nếu cần, cho những bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Các hội nghề nghiệp của luật sư nên hợp tác trong việc tổ chức và cung cấp dịch vụ, thiết bị và các nguồn lực khác. “
Nếu xác định khả năng tài chính thì:
• trợ giúp pháp lý sơ bộ phải được cấp cho các cá nhân đòi hỏi được trợ giúp pháp lý khẩn cấp trong khi chờ đợi kết quả của việc xác định khả năng tài chính;
• Tài chính của cá nhân, chứ không phải là thu nhập của hộ gia đình, là nền tảng của việc xác định khả năng tài chính nếu các thành viên gia đình mâu thuẫn hoặc không có sự bình đẳng giữa các cá nhân trong gia đình;
• Một người bị từ chối trợ giúp pháp lý trên cơ sở xác định khả năng tài chính có quyền kháng cáo quyết định.
Pháp luật yêu cầu bị cáo phải trả lại chi phí trợ giúp pháp lý nếu trường hợp bị bị thua không phù hợp với quyền được nhận tư vấn pháp lý.
Toà án phải đảm bảo rằng các bị cáo và luật sư chỉ định của họ có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị việc bào chữa. (Xem Chương 8)
Quyền nhận trợ giúp pháp lý của những người không có đủ nguồn tài chính được quy định tại Điều 13 của Điều lệ Ả Rập, áp dụng mọi lúc, kể cả trong trường hợp khẩn cấp. Quyền này cũng được đảm bảo theo luật nhân đạo quốc tế, áp dụng trong thời gian có xung đột vũ trang. (Xem Chương 31- Về tình trạng khẩn cấp và Chương 32 – Về xung đột vũ trang)
20.4 Quyền mật thông với luật sư
Quyền giao tiếp với luật sư là một phần của quyền được nhânh tư vấn pháp lý. Nó được quy định rõ ràng trong một số các tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị bào chữa, quyền của bị cáo để tự bào chữa.
Giao tiếp giữa bị cáo và luật sư trong mối quan hệ chuyên nghiệp đều được giữ kín. Các nhà chức trách phải đảm bảo rằng nội dung giao tiếp giữa họ được giữ bí mật. (Xem Chương 27 phần 6 mục 3- về bảo mật của thông tin liên lạc giữa các luật sư và trẻ em bị buộc tội)
Quyền liên lạc với luật sư theo ICCPR và Công ước châu Âu bao gồm quyền thông tin bảo mật, mặc dù điều này không quy định rõ ràng trong cả hai hiệp ước. Tòa án châu Âu cho rằng quyền của bị cáo liên lạc với luật sư của mình một cách bí mật là một phần của các yêu cầu cơ bản của một phiên tòa công bằng.
Chính quyền phải cung cấp đủ thời gian và cơ sở vật chất cho một bị cáo đang bị giam giữ để gặp gỡ và trao đổi thông tin liên lạc bí mật với luật sư của họ, bao gồm cả gặp mặt trực tiếp, qua điện thoại và bằng văn vản viết. Các cuộc gặp mặt hoặc cuộc gọi điện thoại có thể diễn ra trong tầm mắt, nhưng không phải trong tầm nghe của người giám sát. (Xem Chương 3 phần 6 mục 1- Quyền thông tin bảo mật với luật sư)
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của các luật sư, Nguyên tắc 22
“Các chính phủ công nhận và tôn trọng tất cả các thông tin liên lạc và tham vấn giữa luật sư và khách hàng của họ và mối quan hệ chuyên nghiệp của họ đều được giữ kín”.
Người bị tạm giam nên có quyền giữ tài liệu liên quan đến trường hợp của họ.
Báo cáo viên đặc biệt về tính độc lập của thẩm phán và luật sư cũng đã nhấn mạnh rằng các tập tin và các văn bản của luật sư cần được bảo vệ chống lại việc bị thu giữ hoặc kiểm tra, thông tin liên lạc, bao gồm cả các cuộc gọi điện thoại và thông tin liên lạc điện tử khác, không nên bị nghe trộm và đọc trộm.
Tòa án châu Âu đã cho rằng việc kiểm tra thường xuyên trao đổi thư từ giữa một tù nhân và luật sư của mình đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng của cánh tay và bị xói mòn đáng kể quyền quốc phòng. Nó nói lạc này với các luật sư, bất cứ điều gì mục đích của nó, luôn luôn là đặc quyền và rằng: “đọc thư của một tù nhân đến và đi từ một luật sư chỉ cho phép trong trường hợp đặc biệt, khi các nhà chức trách có lý do hợp lý để tin rằng các đặc quyền đang bị ngược đãi, trong đó các nội dung của thư gây nguy hiểm cho an ninh nhà tù hoặc sự an toàn của người khác hoặc là nếu không có tính chất hình sự “.
Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về quyền con người và chống khủng bố đã bày tỏ lo ngại về những vi phạm quyền bí mật thông tin liên lạc giữa các cá nhân bị buộc tội khủng bố và luật sư của họ, cả trong quá trình giam giữ trước khi xét xử và trong thời gian xét xử.
Tòa án liên Mỹ kết luận rằng thực tế là bị cáo buộc tội khủng bố là không thể giao tiếp một cách cởi mở và riêng tư với luật sư của mình đã vi phạm Điều 8 của Công ước châu Mỹ.
Tòa án châu Âu đã cho rằng trong trường hợp đặc biệt, tính bảo mật của thông tin liên lạc có thể bị hạn chế một cách hợp pháp. Tuy nhiên nó nói rằng bất kỳ hạn chế nào phải tuân theo quy định của pháp luật và theo yêu cầu của một thẩm phán. Chúng phải tương ứng với một mục đích hợp pháp – chẳng hạn như để ngăn chặn tội phạm nghiêm trọng liên quan đến tử vong hoặc chấn thương – và phải kèm theo biện pháp bảo vệ đầy đủ chống lại sự lạm dụng. Tiêu chuẩn không hiệp ước của Hội đồng châu Âu, trong đó có quy nhà tù châu Âu, dựa trên luật học này.
Tòa án châu Âu đã phân tích những hạn chế về tính bảo mật của thông tin liên lạc với luật sư trong thực tế. Hạn chế đó phải là ngoại lệ, theo quy định của pháp luật, cần thiết và tương xứng để đạt được một mục tiêu hợp pháp, và đi kèm với biện pháp bảo vệ đầy đủ chống lại sự lạm dụng. Nó kết luận rằng việc xem xét thư từ trao đổi giữ bị cáo và luật sư là hợp lý nếu vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và phòng chống tội phạm. Có những biện pháp sau đây để chống lại sự lạm dụng: thư từ được xem bởi một thẩm phán không liên quan đến vụ án, và có bổn phận phải giữ bí mật thông tin thu được.
Quyền thông tin liên lạc bí mật giữa một cá nhân và luật sư của họ không chấm dứt khi có phán quyết cuối cùng.
Ủy ban Nhân quyền bày tỏ quan ngại rằng ở Nhật Bản, các cuộc gặp giữa các cá nhân bị kết án tử và luật sư của họ về yêu cầu phúc thẩm được giám sát bởi các quan chức nhà tù cho đến khi tòa án có quyết định xem xét lại trường hợp.
Thông tin liên lạc giữa một người bị bắt giữ hoặc bị bỏ tù và luật sư của họ là không thể chấp nhận làm bằng chứng trừ khi chúng được kết nối với một tội phạm tiếp tục hoặc dự tính sau đó.
(Xem Chương 17phần 3- Việc loại trừ các bằng chứng thu được từ thông tin liên lạc bí mật với luật sư và Chương 3 phần 6 mục 1- Về giao tiếp bí mật với luật sư trước phiên tòa)
20.5 Quyền được nhận trợ giúp pháp lý
Luật sư bào chữa, bao gồm cả luật sư chỉ định, phải hành động một cách tự do và siêng năng phù hợp với các tiêu chuẩn và đạo đức của nghề luật sư pháp luật và được công nhận. Họ phải khuyến cáo khách hàng về quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ, và thông báo cho họ về hệ thống pháp luật. Họ phải hỗ trợ khách hàng của họ bằng mọi cách thích hợp, hành động như là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng và hỗ trợ khách hàng của họ trước tòa án. Trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng và trong việc thúc đẩy công lý, luật sư phải tìm cách duy trì quyền con người được công nhận bởi luật pháp quốc gia và quốc tế.
Ủy ban liên Mỹ cho rằng quyền được nhận trợ giúp pháp lý bị vi phạm khi luật sư không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ khách hàng của họ.
Khi bị cáo có luật sư chỉ định đại diện, các cơ quan chức phải đảm bảo rằng các luật sư được chỉ định có đào tạo cần thiết, kỹ năng, kinh nghiệm và năng lực cho các trường hợp.
Các cơ quan có trách nhiệm đặc biệt để đảm bảo rằng các bị cáo được nhận sự trợ giúp pháp lý có hiệu quả từ luật sư chỉ định. Các quốc gia chịu trách nhiệm nếu họ không cung cấp trợ giúp pháp lý. Nếu luật sư chỉ định không hoạt động hiệu quả, tòa án hoặc nhà chức trách phải thay bằng luật sư khác. (Xem Chương 28 phần 6 mục 1- Quyền nhận tư vấn hiệu quả trong các trường hợp án tử hình)
Tòa án liên Mỹ kết luận rằng nhà nước đã vi phạm quyền nhận trợ giúp pháp lý của bị cáo luật sư trong trường hợp luật sư chỉ định vắng mặt trong buổi thẩm vấn của bị cáo và trong hầu hết khai nhận của bị cáo trước khi xét xử.
Trong trường hợp một luật sư đại diện cho bị cáo kháng cáo, hỗ trợ hiệu quả sẽ bao gồm việc luật sư tư vấn bị cáo nếu luật sư có ý định rút kháng cáo, hoặc cho rằng nó không có cơ hội.
Tầm quan trọng của luật sư có thẩm quyền, giàu kinh nghiệm, có tay nghề và hiệu quả trong trường hợp bị cáo nhận hình phạt tử hình đã được nhiều lần nhấn mạnh bởi các cơ quan nhân quyền và tòa án (xem Chương 28 phần 6 mục 1- Quyền nhận trợ giúp pháp lý hiệu quả trong trường hợp hình phạt tử hình)
20.6 Cấm quấy rối và đe dọa luật sư
Luật sư có thể tư vấn và đại diện cho mọi người một cách không có hạn chế, không bị ảnh hưởng, áp lực hoặc can thiệp không đúng cách từ bất kỳ phía nào.
Luật sư nên được miễn trừ hình sự theo luật hình sự và dân sự đối với tuyên bố bằng miệng và bằng văn bản trước tòa án. Họ không nên bị trừng phạt đối với bất kỳ hành động phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn được công nhận, tiêu chuẩn và đạo đức.
Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ các luật sư bị đe dọa do thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ủy ban Nhân quyền đã làm rõ rằng Điều 14 của ICCPR bị vi phạm khi Toà án hoặc chính quyền cản trở luật sư chỉ định thực hiện công việc của họ hiệu quả.
Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về sự độc lập của thẩm phán và luật sư đã tăng mối lo ngại rằng các luật sư thường bị đe dọa. Nhiều luật sư bị điều tra hoặc truy tố về việc hỗ trợ bị hoặc phỉ báng. Một số luật sư cũng đã bị khởi tố vì đã tố cáo sự ngược đãi đối với bị cáo hoặc nêu lên sai sót của hệ thống tư pháp.
Hết Chương 20
Đón đọc Chương 21 Quyền có mặt tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm
Xem các chương trước tại Đây.