Nhóm dịch thuật Defend The Defenders: Vũ Quốc Ngữ, Nguyễn Thanh Anh, Nguyễn Thanh Thủy và Trang Thiên Long
Văn Phòng Đặc Trách Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động:
Báo Cáo Quốc Gia về Tình Hình Nhân Quyền 2013 – VIỆT NAM
Ngày 27 tháng 2 năm 2014
TÓM TẮT TỔNG QUAN
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một nhà nước độc tài độc đảng. Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) được dẫn đầu bởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Cuộc bầu cử quốc hội gần đây nhất được tổ chức vào năm 2011 không hề có tự do lẫn công bằng. Nhà cầm quyền duy trì việc kiểm soát hoàn toàn lực lượng an ninh. Lực lượng an ninh lại thực hiện những vi phạm nhân quyền.
Các vấn đề nhân quyền nghiêm trọng nhất tại quốc gia này vẫn là những cấm đoán hà khắc của chính quyền đối với quyền tham gia chính trị của công dân, đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ của người dân; gia tăng các biện pháp hạn chế quyền tự do dân sự; và vấn nạn tham nhũng trong hệ thống tư pháp và công an.
Các vi phạm nhân quyền chủ yếu vẫn là sự ngược đãi của công an với nghi phạm trong quá trình bắt và tạm giam, bao gồm việc dùng bạo lực dẫn đến tử vong, điều kiện giam giữ hà khắc; bắt bớ tuỳ tiện những hoạt động chính trị cũng như không cho người dân quyền có được một phiên toà công bằng và nhanh chóng. Ảnh hưởng chính trị, nạn tham nhũng đặc thù và sự kém hiệu quả tiếp tục bóp méo hệ thống tư pháp một cách nghiêm trọng. Chính quyền hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và đàn áp giới bất đồng chính kiến; tăng cường hạn chế tự do internet; tiếp tục có những báo cáo liên quan đến các cuộc tấn công các website chứa nội dung phê bình; duy trì việc theo dõi giới bất đồng chính kiến cũng như hạn chế quyền tự do riêng tư, quyền tự do lập hội cũng như đi lại. Mặc dù chính quyền mới cấp phép cho hơn 100 điểm thờ phượng, nhưng vẫn còn hàng trăm nơi khác không được cấp phép, và người dân phải cố thực thi quyền tự do tín ngưỡng của mình; trong khi vẫn tiếp tục bị sách nhiễu, việc giải thích và thực thi luật với quyền này lại khác nhau và không có sự đồng nhất trong bảo vệ pháp lý, đặc biệt mức độ tuỳ thuộc theo cấp tỉnh và làng xã. Nạn tham nhũng của giới công an vẫn còn dai dẳng. Chính quyền duy trì sự cấm đoán đối với các tổ chức nhân quyền độc lập. Bạo lực, đối xử phân biệt với phụ nữ, nạn buôn người bao gồm cả nam giới, phụ nữ, trẻ em, cũng như việc lựa chọn giới tính và khai thác tình dục trẻ em vẫn còn diễn ra. Mặc dù sự phân biệt đối xử trong xã hội đối với sự khác biệt dân tộc, khuynh hướng tính dục, giới tính và tình trạng phơi nhiễm HIV/AIDS vẫn tồn tại, tuy vậy đã có một cuộc tranh luận công khai về đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, và chuyển giới (LGBT), và những người thuộc giới LGBT nhìn chung đã được chấp nhận. Chính phủ duy trì việc hạn chế quyền của lực lượng công nhân được thành lập và tham gia các công đoàn độc lập cũng như không thực hiện các điều kiện làm việc an toàn và có lợi cho sức khoẻ một cách đầy đủ. Vẫn còn lao động trẻ em.
Chính phủ đã không có những bước nhất quán trong việc truy tố và trừng phạt các quan chức lạm dụng quyền lực, và đôi khi miễn trừng phạt đối với những công an vi phạm.
Phần 1. Tôn Trọng Quyền Toàn Vẹn Con Người, bao gồm Quyền không bị:
a. Tước đi Mạng Sống Một Cách Tuỳ Tiện và Bất Hợp Pháp:
Mặc dù không phải tất cả trường hợp đều có những báo cáo tường tận, nhưng chúng đã cho thấy chính quyền hoặc các đặc vụ của họ đã giết người tuỳ tiện và bất hợp pháp, bao gồm tin tức trong năm nói về chín trường hợp đã chết trong khi bị giam giữ cũng như việc lạm dụng vũ lực dẫn đến tử vong. Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đang xem xét các cáo buộc về việc lạm dụng quyền lực của lực lượng an ninh.
Vào ngày 29 tháng 1, sau hai tháng giam cầm với cáo buộc trộm cắp, Nguyễn Quốc Tuấn đã tử vong khi đang bị cảnh sát tỉnh Gia Lai giam giữ. Gia đình của Tuấn phản đối kết luận cái chết do nguyên nhân tự nhiên của cơ quan chức năng. Họ chỉ ra các vết bầm, vết thương nghiêm trọng trên thân thể của Tuấn. Không có thêm thông tin nào được công bố về cái chết của Tuấn hoặc yêu cầu có một cuộc điều tra của gia đình.
Theo các báo cáo chính thức, Trần Văn Hiền tử vong vì chấn thương sọ não vào ngày 11 tháng 4, khi đang bị bắt giữ tại công an quận Bình Tân, Tp.HCM, sau khi ông đe doạ sẽ ghi hình công an giao thông trong lúc bị họ tịch thu xe máy. Nhân viên công vụ Lê Thanh Bằng và Lê Văn Tòng đã thừa nhận hành vi đánh ông Hiền. Trường hợp này vẫn còn đang được an ninh điều tra kể từ tháng 11.
b. Mất Tích:
Một báo cáo mới về trường hợp mất tích vì động cơ chính trị: Vào ngày 21 tháng 8, công an bắt giữ blogger Nguyễn Văn Dũng, còn được gọi là Aduku Adk, khi đang trên đường tại trung tâm Hà Nội sau khi anh tham dự một cuộc họp của “Mạng lưới Blogger Việt Nam”. Ngay sau khi bị bắt, công an địa phương đã khám xét nhà anh. Cho đến cuối năm, vẫn không rõ anh hiện ở đâu và chính quyền vẫn chưa có hồ sơ cáo trạng chính thức.
Thêm trường hợp không biết tung tích là hoà thượng Thích Trí Khai, không có trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bị chính quyền bắt giữ vào năm 2008 và Lê Trí Tuệ, một sáng lập viên của Công đoàn Độc lập Việt Nam bị bắt giữ vào năm 2007.
Vào ngày 28 tháng 1, Uỷ ban LHQ về Những Trường Hợp Bị Bắt hoặc Đưa Đi Mất Tích báo cáo rằng họ đã gửi lại truy vấn đối với một trường hợp nổi bật có trong hồ sơ nhưng vẫn không được chính phủ Việt Nam hồi đáp.
c. Tra Tấn hoặc Các Đối Xử hay Trừng Phạt Tàn bạo, Dã Man, Vô Nhân Đạo
Luật pháp nghiêm cấm việc xâm hại thân thể, tuy vậy giới công an thường xuyên ngược đãi nghi phạm trong quá trình bắt giữ hoặc tạm giam, cũng như các nhân viên trung tâm cai nghiện lạm dụng học viên. Lực lượng an ninh cũng đã tấn công phóng viên (xem phần 2.a). Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước chống tra tấn vào ngày 7 tháng 11.
Trong năm qua có các báo cáo về tình trạng lạm dụng y khoa. Trường hợp của blogger Lê Anh Hùng bị an ninh bắt vào trại tâm thần ngày 24 tháng 1, mặc dù không theo ý muốn của ông. Ông được thả vào ngày 5 tháng 2. Lê Anh Hùng thường xuyên tố cáo tình trạng tham nhũng của các quan chức cấp cao trên blog của mình.
Vào tháng 5, blogger Nguyễn Hoàng Vi, em gái Nguyễn Thảo Chi và mẹ của cô Nguyễn Thị Cúc cáo buộc công an đã sách nhiễu và đánh đập khi họ cố lấy lại chiếc điện thoại di động và máy vi tính mà công an đã tịch thu của Nguyễn Hoàng Vi ngày hôm trước.
Dân oan tại Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng và một số tỉnh miền Tây tiếp tục gửi báo cáo những trường hợp bị chính quyền sách nhiễu và đe doạ tính mạng. Điển hình là vào ngày 17 tháng 9, những người dân oan biểu tình cho biết công an và chính quyền địa phường đã đẩy họ xuống đường và làm họ bị thương ngay trước toà nhà văn phòng chính phủ. (Hầu hết các xô xát giữa chính quyền địa phương và các nhóm thiểu số đều liên quan đến tranh chấp đất đai, tiền bạc hoặc nội bộ)
Vào tháng 5, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hoà tuyên bố Thiếu tá Nguyễn Minh Quyền, Thiếu tá Nguyễn Tấn Quang, Thượng uý Phạm Ngọc Mẫn và Thiếu uý Nguyễn Thân Thảo và Trung uý Đỗ Như Huy phạm tội sử dụng nhục hình trong quá trình thẩm vấn Ngô Thanh Kiều, bị bắt giữ vì tội trộm cắp vào tháng 5-2012. Ngô đã chết vì chấn thương. Viện kiểm sát đề nghị xử lý kỷ luật 10 nhân viên công an của thành phố Tuy Hoà, bao gồm cả Thượng tá Lê Đức Hoà. Vụ án vẫn đang chờ được xét xử.
Điều Kiện Nhà Tù và Nơi Giam Giữ
Điều kiện nhà tù tuy khắc khổ nhưng thường không đe dọa tính mạng. Tình trạng quá tải, chế độ ăn uống thiếu tốn, thiếu nước sạch, nhà vệ sinh bẩn thỉu vẫn là những vấn đề nghiêm trọng. Các phương tiện truyền thông do nhà nước quản lý bị cấm đưa tin về các điều kiện sinh hoạt này.
Điều kiện Vật chất: Số lượng tù nhân và người bị giam giữ không được công bố không khai, tuy vậy tổ chức phi chính phủ (NGO) Trung tâm Nghiên cứu Nhà tù Quốc tế báo cáo số lượng tù nhân vào giữa năm 2012, bao gồm những người bị tạm giam chờ xét xử, là 130.180 người, trong đó 12,6% là phụ nữ. Chính quyền thường giam giữ cách ly nam và nữ, vẫn có một số trường hợp ngoại lệ tại các trung tâm giam giữ địa phương do không đủ chỗ. Chính quyền giam giữ cách ly thanh thiếu niên và người trưởng thành, tuy nhiên cũng có những trường hợp hiếm hoi, thanh thiếu niên bị giam giữ chung với người trưởng thành trong khoảng thời gian ngắn do không còn chỗ.
Chính quyền thường đưa các tù nhân chính trị vào các nhà tù được chỉ định, nơi cũng giam giữ các tội phạm khác. Tuy nhiên trong hầu hết trường hợp, chính quyền giam giữ cách ly tù nhân chính trị và phi chính trị. Chính quyền cô lập hoàn toàn một số tù nhân chính trị có ảnh hưởng.
Tù nhân có chăm sóc y tế cơ bản, mặc dù có nhiều trường hợp, chính quyền ngăn cản thân nhân cung cấp thuốc men cho tù nhân. Ngoài ra, thân nhân những nhà hoạt động bị cầm tù hiểu rõ tình trạng sức khoẻ của người nhà cho biết điều trị y tế của nhà tù không thích hợp và dẫn đến những biến chứng đối với sức khoẻ lâu dài hơn. Vào tháng 6, Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực phản đối điều kiện của nhà tù, bao gồm việc khiếu nại các điều kiện của nhà tù làm bệnh tim mãn tính của ông thêm trầm trọng. Vào tháng 9 ông Đinh Đăng Định, giáo viên trung học ở tỉnh Dak Nông bị bắt giữ vì những bài viết đăng tải trên mạng của ông vào năm 2011 và bị kết án sáu năm tù giam vào tháng 8-2012. Ông được phép phẫu thuật ung thư dạ dày tại Tp.HCM
Những trường hợp tử vong trong tù hầu hết đều liên quan đến điều kiện sức khoẻ, bị trầm trọng thêm do chăm sóc y tế kém và chậm trễ, vệ sinh kém và suy dinh dưỡng. Một số thân nhân tù nhân cáo buộc do chính quyền dùng vũ lực gây tử vong. (xem phần 1.a)
Tù nhân thường bị bắt làm việc không lương. Họ đôi khi bị chính quyền biệt giam và ngăn cấm sách báo để đọc hoặc bút vở để viết trong khoảng thời gian đôi khi lên đến vài tháng. Gia đình tù nhân tìm cách để tù nhân nhận được quyền lợi bằng cách hối lộ cho các viên chức nhà tù hoặc thực hiện tuyệt thực.
Quản lý: Ngay cả khi án tù có thể rất dài, nhưng chính quyền không cưỡng ép người tù chịu quá mức án đã được kết án. Không hề có thanh tra nhà tù và không hề có sự xem xét thay đổi chế độ giam giữ cho những người tội nhân bất bạo động. Quản lý trại giam không hề giữ hồ sơ đầy đủ và số liệu thống kê nhiều lúc mâu thuẫn.
Chính quyền giới hạn lần thăm gặp của tù nhân và gia đình là 30 phút cho một lần trong tháng, và nhìn chung gia đình được phép cung cấp thực phẩm và chăn, gối cho tù nhân. Gia đình các tù nhân chính trị tiếp tục báo cáo tình trạng chính quyền cho lực lượng an ninh gia tăng kiểm soát và sách nhiễu cũng như can thiệp vào công việc, học tập và các hoạt động tài chính của họ. Ngoài ra, chính phủ còn ngăn cản các nhà ngoại giao gặp gỡ tù nhân mà chỉ cho phép các nhà ngoại giao đề xuất một tù nhân được gặp trong năm.
Chính quyền thường xuyên thuyên chuyển tù nhân nhằm gây khó khăn việc thăm gặp đối với gia đình. Vào tháng 2, chính quyền đã chuyển trại Nguyễn Văn Hải (bút danh Điếu Cày) sang Bà Rịa-Vũng Tàu, mà không thông báo cho gia đình. Ông Hải cho biết quản giáo buộc ông phải vứt bỏ tất cả đồ dùng cá nhân, bao gồm sách vở, báo chí, giấy, bút và biệt giam ông hơn hai tháng. Vào tháng 4, chính quyền lại chuyển trại ông Hải sang tỉnh Nghệ An và biệt giam ông, sau đó ông bắt đầu tuyệt thực.
Vào tháng 5, chính quyền chuyển trại Tạ Phong Tần, người đạt giải Phụ Nữ Can Đảm Quốc Tế 2013, đang chịu án 10 năm tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88), từ trại tù tỉnh Đồng Nai sang tỉnh Thanh Hoá. Bà cho biết việc thuyên chuyển này làm sức khoẻ của bà càng xấu đi.
Giám sát độc lập: Mặc dù đã được phép, nhưng Uỷ ban Chữ thập đỏ Quốc tế không được yêu cầu cũng như thăm gặp tù nhân suốt năm qua.
d. Bắt và Giam Giữ Tuỳ Tiện:
Luật pháp cho phép chính phủ bắt người với tội danh mập mờ “an ninh quốc gia”. Chính phủ tiếp tục bắt và giam giữ các cá nhân như vậy bằng những những quy định pháp luật khác và một số nhà hoạt động bị giam giữ hành chính hoặc quản thúc tại gia.
Vai Trò của Bộ Máy An Ninh và Công An:
Giữ gìn an ninh quốc gia là nhiệm vụ của Bộ Công an, mặc dù tại một số vùng sâu vùng xa, quân đội mới là cơ quan nhà nước chính yếu thực hiện chức năng bảo an xã hội bao gồm cả việc duy trì trật tự xã hội trong trường hợp bất ổn dân sự. Bộ Công an điều hành công an, cơ quan điều tra an ninh quốc gia và các đơn vi an ninh nội bộ khác.
Tổ chức bộ máy công an tồn tại ở cấp tỉnh, quận và địa phương và dưới sự quản lý của Uỷ ban nhân dân mỗi cấp. Mặc dù Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (Phòng Công tố) có thẩm quyền điều tra tệ lạm dụng quyền lực của lực lượng an ninh, tuy nhiên các tổ chức của lực lượng công an hoạt động rất tuỳ tiện và thiếu minh bạch. Tại cấp xã, lực lượng dân quân tự vệ bao gồm cả cư dân tại đấy để hỗ trợ lực lượng công an. Lực lượng công an nhìn chung rất hiệu quả trong việc duy trì trật tự xã hội, tuy nhiên năng lực của lực lượng này, đặc biệt, trong điều tra, rất giới hạn, nguồn lực và đào tạo thiếu về chất lượng lẫn số lượng. Một vài chính phủ nước ngoài vẫn tiếp tục hỗ trợ đào tạo cho lực lượng công an và quản lý trại giam cấp tỉnh nhằm nâng cao kỷ năng chuyên môn.
Thủ Tục Bắt Giữ và Cách Đối Xử với Người bị giam giữ
Luật pháp đề ra quy trình từ lúc cá nhân bị bắt giữ và cách xử lý cho đến khi chính quyền xét xử tội trạng của họ. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ban hành lệnh bắt giữ, thường là theo yêu cầu của công an, mặc dù lực luợng công an có thể bắt giữ khi chưa có lệnh mà chỉ dựa trên đơn khiếu nại của một người nào đó. Viện Kiểm sát đưa lệnh bắt sau đó trong những trường hợp như vậy. Viện Kiểm sát phải là bên đưa ra quyết định tiến hành một cuộc điều tra hình sự chính thức đối với người bị bắt trong vòng chín ngày; nếu không công an phải thả nghi phạm. Chính phủ thường vi phạm quy trình chín ngày đó và không thông báo một cách nhất quán cho người bị bắt họ phạm tội gì.
Theo luật định, người bị bắt có quyền tiếp xúc với luật sư trong thời gian bị bắt giữ; tuy nhiên, chính quyền vẫn theo cách thức quan liêu gây chậm trễ cho việc tư vấn pháp lý. Trong những hợp bị điều tra theo luật an ninh quốc gia, chính quyền ngăn cấm luật sư biện hộ được tiếp xúc thân chủ cho đến sau khi cuộc điều tra kết thúc và nghi phạm đã có tội danh chính thức, thường sau khoảng bốn tháng. Theo quy định, cuộc điều tra có thể vẫn tiếp tục và việc tiếp cận để được tư vấn bị từ chối trong khoảng hơn hai năm. Ngoài ra, sự khan hiếm các luật sư được đào tạo cũng như sự bảo vệ quyền lợi cho bị cáo không đầy đủ dẫn đến việc người bị bắt rất hiếm khi được tiếp xúc với luật sư một cách nhanh chóng. Chỉ có người vị thành niên và người đã bị buộc tội một cách chính thức được chỉ định luật sư.
Luật pháp yêu cầu cơ quan chức năng thông báo cho luật sư bào chữa quá trình thẩm vấn thân chủ của họ và cho phép họ được tham dự, tuy nhiên trước hết bị cáo cần phải yêu cầu có luật sư. Vẫn chưa biết rõ rằng cơ quan chức năng có thường xuyên thông báo cho bị cáo biết quyền này của họ hay không. Luật pháp cũng yêu cầu cơ quan chức năng phải cung cấp hồ sơ cho luật sư và cho phép họ sao chép các tài liệu. Đôi lúc luật sư cũng có thể thực hiện các quyền như trên, mặc dù những người đại diện cho thân chủ bị giam vì lý do chính trị báo cáo rằng họ không thể thực hiện trách nhiệm này cho thân chủ của họ cũng như thực thi quyền của họ theo luật định.
Công an thường thông báo cho gia đình người bị bắt nơi giam giữ, tuy nhiên gia đình chỉ được phép thăm gặp người bị bắt khi được phép của điều tra viên, và họ thường xuyên không cấp giấy phép này. Trong quá trình điều tra, cơ quan chức năng thường xuyên từ chối quyền được tiếp xúc với gia đình của người bị bắt, đặc biệt trong những trường hợp an ninh quốc gia. Trước khi có bản cáo trạng chính thức, người bị bắt có quyền thông báo cho gia đình, tuy vậy vẫn có một số người bị bắt vì nghi ngờ liên quan đến an ninh quốc gia không được cho phép tiếp xúc bên ngoài. Thời gian bị giam giữ trước khi xét xử được tính vào thời gian bị kết án và phục vụ án tù.
Toà án có thể kết án giam giữ hành chính một người lên đến năm năm tù sau khi mãn hạn tù. Ngoài ra, công an hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước bảo trợ nhưng được gọi là “tổ chức quần chúng” có thể đề xuất một trong năm “biện pháp hành chính” khác nhau được những người trong Uỷ ban nhân dân cấp quận, cấp tỉnh áp đặt mà không cần xét xử. Các biện pháp này bao gồm những án phạt dao động từ sáu đến 24 tháng hoặc gửi vào trường giáo dưỡng vị thành niên hoặc các trung tâm giam giữ người trưởng thành. Chính quyền thường áp dụng những biện pháp như vậy đối với những người tái phạm nhiều lần những tội danh nhỏ, như trộm cắp vặt hoặc “sỉ nhục người khác.” Những án phạt 24 tháng thường dành cho những người nghiện ma tuý và gái mại dâm. Những người bị kết án giam giữ tại các cơ sở này thường bị bắt làm việc có định mức để trả cho chi phí dịch vụ và chi phí giam giữ. Những người trong uỷ ban cũng có thể đề xuất những án phạt “quản chế hành chính”, thường là hình thức hạn chế đi lại. Chính quyền tiếp tục trừng phạt các cá nhân bằng những điều luật diễn đạt mơ hồ về an ninh quốc gia.
Rất nhiều người bị bắt, đặc biệt đối với những người bị kết án vì an ninh quốc gia, cho biết họ không được tiếp xúc với tư vấn pháp lý thường xuyên và bị hạn chế tiếp cận tài liệu và thông tin hỗ trợ trong việc chuẩn bị bảo vệ pháp lý , ngay cả Luật Hình sự của chính nước họ.
Không hề có cơ chế bảo lãnh hoặc cơ chế tương đương thả người có điều kiện.
Bắt Giữ Tuỳ Tiện: Việc bắt và giam giữ tuỳ tiện, đặc biệt với các nhà hoạt động chính trị vẫn là một vấn đề. Chính quyền vẫn sử dụng những nghị định, pháp lệnh và các biện pháp khác để bắt giữ các nhà hoạt động vì bày tỏ ôn hoà quan điểm chính trị đối lập (xem phần 2.a)
Chính quyền bắt giữ những người với cáo buộc tiết lộ bí mật quốc gia, tội lật đổ, và lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, và các tội danh khác như là một phương tiện đàn áp giới bất đồng chính kiến và vận động chính sách.
Chính phủ báo cáo trong đầu năm 2012 (số liệu mới nhất) có hơn 43.000 người nghiện ma tuý – một con số lớn những người bị cưỡng ép cai nghiện mà không cần thông qua xem xét tư pháp – đang sống trong 121 trại cai nghiện trên khắp cả nước. Tại những trung tâm này, theo báo cáo của tổ chức NGO 2011, chính quyền đã ép buộc họ làm những công việc thấp kém trong điều kiện tồi tàn và ngược đãi họ (xem phần 7.b)
Luật xử lý vi phạm hành chính được thông qua vào tháng 6-2012 đã bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1-7, ngoại trừ một số quy định do toà án nhân dân xử lý, điều luật này dự kiến sẽ được áp dụng vào ngày 1-1-2014. Điều luật này đưa ra thủ tục tư pháp mới nhằm thay thế hệ thống giam giữ hành chính có thủ tục pháp lý để cưõng bức những người bị cáo buộc vào các trung tâm cai nghiện. Sau khi điều luật này được ban hành, bộ Tư pháp đã tổ chức các hội nghị, hội thảo và tập huấn cho việc thực hiện. Tính đến tháng 10, bộ Tư pháp báo cáo đang soạn thảo 26 nghị định để thực hiện điều luật. Vào cuối năm nay, các quy định pháp luật cung cấp cho quy trình này vẫn chưa được áp dụng.
Vào ngày 21 tháng 5, công an bắt giữ ngắn hạn các blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (còn gọi Mẹ Nấm Gấu), Nguyễn Tiến Nam (còn gọi Binh Nhì) và Phạm Văn Hải (còn gọi Sea Free) sau khi họ phân phát bản sao của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (TNQTNQ) và bong bóng bay với biểu tượng nhân quyền tại Nha Trang.
Chính quyền cũng theo dõi các nhà hoạt động tôn giáo và chính trị tuỳ theo mức độ khác nhau giam giữ không chính thức tại nơi ở của họ. Theo các báo cáo độc lập, công an tại Tp.Hồ Chí Minh và Hà Nội tiếp tục theo dõi các hoạt động của những nhà hoạt động nổi trội như Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Bắc Truyển, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Đài, Phạm Hồng Sơn và Lê Công Định.
Giam Giữ Trước Khi Xét Xử: Thời gian điều tra thường kéo dài từ ba tháng đối với những tội ít nghiêm trọng (bản án lên đến ba năm tù), cho đến 16 tháng tù cho những tội đặc biệt nghiêm trọng (bản án trên 15 năm tù hoặc tử hình), và hơn hai năm đối với các trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia. Tuy vậy, cũng có những cuộc điều tra vô thời hạn. Pháp luật quy định, Viện kiểm sát cũng có thể yêu cầu giam giữ thêm hai tháng sau khi hoàn tất điều tra nhằm xem xét liệu có truy tố hoặc có yêu cầu điều tra thêm hay không. Các nhà điều tra đôi khi vẫn sử dụng vũ lực, cô lập và thẩm vấn quá mức và gây mất ngủ buộc người bị bắt phải nhận tội.
Vào ngày 2 tháng 10, toà án Hà Nội kết án Lê Quốc Quân, một doanh nhân và cũng là một luật sư nhân quyền bị bắt và giam giữ vào tháng 12-2012 mà không qua xét xử. Ông bị kết án trốn thuế và chịu mức án 30 tháng tù giam, cùng với mức phạt 1,2 tỉ VNĐ ($56,800). Toà án cũng yêu cầu công ty của ông, Vietnam Solution, phải trả tiền thuế bị cáo buộc trốn thuế.
Đặc xá: Trong ngày Quốc khánh truyền thống của mình, chính phủ đã công bố thả hơn 15.000 tù nhân trên toàn quốc, trong đó có 16 người nước ngoài. Bốn cá nhân bị kết án về tội liên quan đến an ninh quốc gia nằm trong số những người được thả: Dương Đức Phong và Hoàng Hưng Quyền, người đã bị kết tội làm gián điệp, Y Kon Nie và Y Hương Nie, những người đã bị bỏ tù vì tội “phá hoại chính sách đoàn kết” (Điều 87 ).
e . Khước từ quyền được xét xử công khai
Pháp luật quy định về tính độc lập của thẩm phán và ban hội thẩm, nhưng Đảng kiểm soát các tòa án ở tất cả các cấp thông qua kiểm soát hiệu quả của các cuộc họp của ngành tư pháp và các cơ chế khác và trong nhiều trường hợp bản án đã được quyết định trước. Như trong những năm qua, ảnh hưởng chính trị, nạn tham nhũng lan tràn, và tính không hiệu quả đã bóp méo mạnh mẽ hệ thống tư pháp. Hầu hết, nếu không phải tất cả, các thẩm phán đều là Đảng viên và đã được bổ nhiệm ít nhất một phần vì quan điểm ĐCS của họ. Ảnh hưởng của đảng là đặc biệt đáng chú ý trong các vụ xử các nhà bất đồng có tiếng và các trường hợp khác, trong đó chính quyền kết án những người thách thức hoặc làm tổn hại đến đảng hoặc nhà nước.
Tiếp tục thiếu hụt các luật sư và thẩm phán được đào tạo. Liên đoàn Luật sư Việt Nam phụ thuộc sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (VFF) của Đảng, một tổ chức mẹ giám sát tất cả các tổ chức xã hội do chính phủ tài trợ của đất nước, và được phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và Hội Luật gia Việt Nam.
Thủ tục xét xử
Hiến pháp quy định rằng công dân vô tội cho đến khi chứng minh có tội, mặc dù nhiều luật sư phàn nàn rằng các thẩm phán thường coi công dân như có tội. Các phiên xử nói chung là mở cửa cho công chúng, nhưng trong trường hợp nhạy cảm thẩm phán đóng cửa phiên tòa hoặc hạn chế tham gia nghiêm ngặt. Bồi thẩm đoàn không được sử dụng.
Cơ quan công tố cáo buộc chống lại một người bị buộc tội và phục vụ như là công tố viên trong các phiên xử. Bị cáo có quyền được thông báo kịp thời và chi tiết các cáo buộc chống lại họ, với sự giải thích miễn phí nếu cần, nhưng điều này không phải luôn luôn thực hiện. Bị đơn có quyền có mặt và có một luật sư tại phiên tòa, mặc dù không nhất thiết phải là luật sư của sự lựa chọn của họ, và quyền này thường được tôn trọng. Bị cáo không thể đủ khả năng thuê một luật sư thường được cung cấp chỉ khi liên quan đến người chưa thành niên hoặc với các bản án nằm trong khung tù chung thân hoặc tử hình. Luật sư biện hộ thường có ít thời gian trước phiên xử để kiểm tra bằng chứng chống lại khách hàng của họ. Bị đơn hoặc luật sư bào chữa có quyền kiểm tra chéo các nhân chứng, nhưng có những trường hợp mà bị cáo và luật sư của họ cung không thể truy cập các bằng chứng của chính phủ trước phiên tòa, các nhân chứng liên quan hoặc văn bản cáo buộc.
Bị cáo có quyền không bị ép buộc phải nhận tội và quyền tránh làm chứng. Các nhà điều tra đôi khi tiếp tục sử dụng bạo lực thể xác, cô lập, thẩm vấn quá dài và làm mất ngủ buộc tù nhân phải thú nhận. Trong trường hợp an ninh quốc gia, các thẩm phán đôi khi không cho luật sư biện hộ trình bày vì khách hàng của họ tại tòa án. Người bị kết án có quyền kháng cáo. Tòa án huyện và tòa án tỉnh không công bố thủ tục tố tụng của họ, nhưng Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục công khai các thủ tục tố tụng của tất cả các trường hợp mà nó xem xét.
Có tiếp tục được báo cáo đáng tin cậy rằng chính quyền gây áp lực luật sư bào chữa không nhận bào chữa cho các nhà hoạt động tôn giáo hay dân chủ. Chính quyền cũng hạn chế, sách nhiễu , bắt giữ, tước quyền luật sư, và trong một số trường hợp, bắt giữ luật sư nhân quyền, những đại diện cho người hoạt động chính trị. Chính quyền ngăn cản luật sư Lê Trần Luật, Huỳnh Văn Đông, Lê Công Định và Nguyễn Văn Đài hành nghề luật sư .
Các Tù nhân Chính trị và Người bị giam giữ
Tiếp tục có các ước tính không chính xác về số tù nhân chính trị, mặc dù số lượng tăng lên trong năm. Chính phủ báo cáo đang giam giữ hơn 120 tù nhân chính trị vào cuối năm, mặc dù một số nhà quan sát quốc tế nói con số lớn hơn. Nguồn tin ngoại giao cho rằng bốn trung tâm cải tạo trong cả nước giam giữ khoảng 4.000 tù nhân.
Trong năm, chính phủ đã kết án 61 nhà hoạt động . Trong số đó, 54 nhà hoạt động đã bị kết án về tội an ninh quốc gia, trong đó có 37 người với “âm mưu lật đổ chính quyền” (Điều 79), 8 người với “phá hoại chính sách đoàn kết” (Điều 87), 5 với “tuyên truyền chống nhà nước” ( Điều 88), và 4 với “chạy trốn ra nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân” (Điều 91). Bên cạnh những kết án về tội an ninh quốc gia, 7 nhà hoạt động đã bị kết án về tội khác nhau, bao gồm 4 người vì “gây rối trật tự công cộng” (Điều 245), một người vì “chống người thi hành công vụ” (Điều 257), một người vì “lợi dụng các quyền tự do dân chủ,” (Điều 258) và một vì “trốn thuế” (Điều 161).
Mặc dù chính quyền tăng cường nỗ lực đàn áp chính trị thông qua bắt giữ tùy tiện và kết án vì động cơ chính trị, chính quyền cũng ngày càng sử dụng các phương pháp quấy rối ít truyền thống, bao gồm cả các mối đe dọa đối với cá nhân và các thành viên gia đình, giam giữ ngắn hạn mà không kết tội, và theo dõi.
Ví dụ, vào 16 tháng 5, Tòa án nhân dân tỉnh Long An kết án Nguyễn Phương Uyên đến 6 năm tù giam 3 năm quản chế và Nguyễn Đình Kha đến 8 năm tù giam và 2 năm quản chế vì “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88). Các nhà chức trách bắt giữ họ trong tháng 11 năm 2012 với cáo buộc làm ra và phán tán tờ rơi chống Đảng và chống Trung Quốc và có liên kết đến tổ chức chính trị “Tuổi trẻ yêu nước” (Young Patriots). Vào 16/8, Tòa phúc thẩm phóng thích Uyên nhưng kèm quản thúc tại gia 3 năm. Tòa giảm án Kha đến 4 năm tù giam. Theo quyết định của tòa phúc thẩm vào tháng 8, theo báo cáo thì các quan chức an ninh đã cưỡng bách Kha thừa nhận đã thực hiện hành vi khủng bố. Theo gia đình Kha, cơ quan điều tra đã bỏ những cáo buộc này trong tháng 11.
Chính phủ cũng bắt giữ và truy tố người dân tộc thiểu số vì một loạt các hành vi phạm tội chống nhà nước. Ví dụ, vào 28/5, Tòa án nhân dân tỉnh Lai kết án 8 người dân tộc thiểu số từ 3 đến 11 năm tù giam theo Điều 87, những người này có liên hệ với một nhà thờ Công giáo không đăng ký. Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân Lai dân tỉnh Gia, người Thượng tổ chức vài cá nhân chống lại kế hoạch xây dựng một nhà máy thủy điện tại Hà Môn và kết hợp với Mặt trận FULRO. Tám người cũng bị kết tội cố gắng thiết lập một “nhà nước độc lập” cho người dân tộc thiểu số ở Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum, Lâm Đồng.
Cơ quan chức năng tiếp tục bắt giữ và bỏ tù những cá nhân khác, những người sử dụng internet để công bố ý tưởng về nhân quyền, các chính sách của chính phủ, và đa nguyên chính trị (xem phần 2.a.).
Một số nhà bất đồng chính liên kết với những tổ chức chính trị bất hợp pháp, bao gồm Đảng Dân chủ Nhân dân, Đảng Nhân dân Hành động, Việt Nam Tự Do, Đảng Dân chủ Việt Nam, Tổ chức Liên kết Công nông, và Khối 8406 – vẫn còn ở trong tù hay quản thúc tại gia tại các địa điểm khác nhau.
Chính quyền đã that một số nhà hoạt động chính trị và tôn giáo có tiếng ra khỏi nhà tù. Vào 6/2, chính quyền thả luật sư nhân quyền Lê Công Định kèm quản chế. Ông đã bị kết án đến 5 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia vì đã bênh vực các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ vào 2010. Ông vẫn bị quản thúc tại nhà vào cuối năm nay.
Thủ tục Tư pháp dân sự và Biện pháp
Chưa có cơ chế rõ ràng và hiệu quả để theo đuổi một vụ kiện dân sự để bồi hoàn hoặc khắc phục các vi phạm từ phía chính quyền. Vụ kiện dân sự được xét xử bởi các tòa hành chính, dân sự và hình sự, tất cả đều thực hiện theo các thủ tục tương tự như trong vụ án hình sự, và được xét xử bởi các thành viên của cùng một cơ quan của các thẩm phán và ban hội thẩm. Tất cả ba cấp độ tiếp tục tràn lan tham nhũng, thiếu độc lập, và thiếu kinh nghiệm.
Theo luật, nếu một công dân tìm cách khiếu nại về vi phạm nhân quyền của một công chức thì phải đối mặt với những rào cản khó khăn và yêu cầu đầu tiên là đề nghị các công chức bị cáo buộc cho phép nạp đơn khiếu nại đến tòa án. Nếu công chức từ chối một đơn khởi kiện, công dân có quyền khiếu nại đến cấp trên của công chức. Nếu công chức hoặc cấp trên chấp nhận đơn khiếu nại cho phiên xử, một tòa án hành chính sẽ lãnh vấn đề này. Nếu tòa án đồng ý rằng trường hợp cần phải truy cứu, họ giao cho tòa án dân sự nếu thương tích liên quan tìm kiếm bồi thường ít hơn 20 phần trăm chi phí chăm sóc sức khỏe do các cáo buộc lạm dụng, hoặc giao cho tòa án hình sự nếu bồi thường hơn 20 phần trăm chi phí như vậy. Kết quả của hệ thống phức tạp với cách giới thiệu và cho phép này đã làm cho người dân khó đạt được khi tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự hoặc hình sự để khắc phục vi phạm nhân quyền, và một số chuyên gia pháp lý đã có kinh nghiệm có liên quan.
Chính phủ tiếp tục cấm các vụ kiện đại diện cho tập thể chống lại các bộ ngành chính phủ, do đó khiến các dân oan không khiếu kiện tập thể được.
Bồi thường Tài sản
Pháp luật quy định về bồi thường, nhà ở và đào tạo nghề cho cá nhân phải di dời do dự án phát triển. Khiếu kiện phổ biến kéo dài do bồi thường không thỏa đáng hoặc trì hoãn, quan chức tham nhũng, và thiếu minh bạch trong quá trình chính phủ tịch thu đất đai và di chuyển dân để mở đường cho các dự án cơ sở hạ tầng. Một số thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số ở miền Trung và Tây Bắc Tây Nguyên tiếp tục phàn nàn rằng họ không nhận được bồi thường thỏa đáng khi chính phủ tịch thu đất để phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn. Trong tháng Sáu, Quốc hội hoãn thông qua Luật Đất đai sửa đổi để nghiên cứu thêm.
f . Can thiệp tùy tiện vào sự Riêng tư, gia đình, Tư gia, hoặc Thư tín
Luật pháp nghiêm cấm xâm phạm tùy tiện vào đời tư, gia đình, nhà cửa, hay thư tín, nhưng chính phủ không tôn trọng những điều cấm này.
Phải có lệnh của viện kiểm sát nếu muốn xâm nhập vào nhà dân, mặc dù lực lượng an ninh hiếm khi theo các thủ tục để có lệnh như vậy, và thay vào đó họ xin phép vào nhà với một giọng ngụ ý đe dọa nếu không hợp tác. Những người bất đồng chính kiến, trong đó có Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, và Đình Nhật Uy, báo cáo rằng cảnh sát lấy đi bất hợp pháp máy tính cá nhân, điện thoại di động, và các tài liệu khác từ nhà và / hoặc văn phòng của họ.
Ngày 25/9, có từ 20 đến 30 công an mặc đồng phục và thường phục xông vào nơi cư trú của blogger Nguyễn Tường Thụy tại Hà Nội mà không có một bảo đảm pháp lý và bắt giữ 9 người, trong đó có Nguyễn Phương Uyên, mẹ của Uyên, cựu tù nhân Phạm Bá Hải, bà Dương Thị Tân ( vợ cũ của Điếu Cày), Lê Quốc Quyết (em trai Lê Quốc Quân), và những người khác. Một số nhân chứng cho biết các viên chức của Bộ Công an đã chuyển cả nhóm đến một trạm cảnh sát Hà Nội, thẩm vấn họ, và tấn công vài người. Cảnh sát thả họ sau 5 tiếng giam giữ. Cả Nguyễn Phương Uyên và Lê Quốc Quyết đều bị bầm tím trên khuôn mặt trong những ngày sau khi vụ việc xảy ra.
Trong năm qua, chính quyền thỉnh thoảng ngăn chặn các nhà hoạt động chính trị và các thành viên gia đình của các tù nhân chính trị đến gặp mặt các nhà ngoại giao nước ngoài. Chiến thuật bao gồm thiết lập các rào cản hoặc dàn nhân viên bảo vệ bên ngoài nơi ở của các nhà ngoại giao và các nhà hoạt động, và triệu tập các cá nhân vào các trạm cảnh sát địa phương để thẩm vấn tùy tiện và lặp đi lặp lại. Trong chuyến thăm tháng tư của một quan chức cấp cao nước ngoài nhằm đánh giá và thảo luận về tình trạng nhân quyền, chính phủ đã bắt giữ một nhà hoạt động có tiếng và chặn nhà của một người khác. Do đó, vị quan chức cấp cao đã không thể thực hiện các hoạt động theo như kế hoạch. Chính quyền một lần nữa ngăn chặn một quan chức cấp cao nước ngoài đến gặp mặt một trong hai nhà hoạt động trong tháng Mười.
Cơ quan chức năng tiếp tục mở và kiểm duyệt email của người đang theo dõi; tịch thu hàng bưu phẩm và thư từ và theo dõi các cuộc điện thoại, e -mail, tin nhắn, blog, và fax. Chính phủ tiếp tục cắt đường dây điện thoại và làm gián đoạn các dịch vụ điện thoại di động và Internet của một số nhà hoạt động chính trị và các thành viên gia đình của họ.
Bộ Công an duy trì một hệ thống đăng ký hộ khẩu và dân phòng để theo dõi dân số. Trong khi hệ thống này là ít xâm nhập hơn trong quá khứ, Bộ Công an tiếp tục theo dõi các cá nhân bị nghi ngờ tham gia, hoặc là có khả năng tham gia vào các hoạt động chính trị trái phép. Báo cáo đáng tin cậy cho rằng cảnh sát địa phương tiếp tục sử dụng côn đồ hợp đồng và nhóm công dân của nhà nước để quấy rối và đánh đạp các nhà hoạt động chính trị và những người khác, bao gồm cả tín đồ tôn giáo, bị coi như những người không được mong muốn hoặc là mối đe dọa đối với an ninh công cộng. Ví dụ, ngày 3 tháng 7, nhóm người mặc đồ thường phục tấn công chùa Cao Đài đọc lập ở Vinh trong tỉnh Tiền Giang đã làm bị thương 12 người. Cơ quan chức năng tiếp tục quấy nhiễu người bị nghi là đã tham gia vào các hoạt động chính trị hoặc tôn giáo trái phép.
Chính phủ tiếp tục theo đuổi một chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản, theo đó thiết lập số trẻ con trung bình của mỗi cặp vợ chồng (xem phần 6, Phụ nữ).
Sự cố quấy rối thân thể, hăm dọa, và tra hỏi các thành viên gia đình của cơ quan an ninh đã được báo cáo trong một số địa điểm, trong số các đó có Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Nghệ An. Lê Quốc Quyết đã báo cáo rằng cảnh sát mặc thường phục tấn công anh ta nhiều lần. Nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng cho rằng cảnh sát mặc thường phục bao vây nơi cư trú của mình trong vài ngày, và cảnh sát theo dõi cô và một số thành viên gia đình và tấn công con trai cô.
Đảng viên vẫn là một điều kiện tiên quyết để phát triển nghề nghiệp trong tất cả các ban ngành, tổ chức và các doanh nghiệp chính phủ. Tuy nhiên, đa dạng hóa kinh tế tiếp tục làm vị trí Đảng viên trong khối đảng và khối các đoàn thể Đảng ít quan trọng hơn trong việc thăng tiến xã hội.
Trong năm đã có một số tranh chấp đất đai và các cuộc biểu tình liên quan liên quan đến chính phủ.
Vào ngày 11/9, trong Thành phố Thái Bình, Đặng Ngọc Viết đã giết một viên chức đất đai của địa phương Võ Ngọc Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất của Thành phố Thái Bình, và làm bị thương bốn quan chức khác tại Ủy ban nhân dân thành phố. Ông đã tự sát vài giờ sau đó. Vụ nổ súng được cho là có nguyên nhân từ một bất đồng liên quan đến bồi thường giải phóng mặt bằng.
Ngày 3/4, Tòa án nhân dân Hải Phòng tại Tiên Lãng, Hải Phòng, đã kết án Đoàn Văn Vươn 5 năm tù giam. Cùng với một số thành viên gia đình, tòa án kết tội ông Vươn cài mìn và bắn súng tự chế vào cảnh sát. Cáo buộc bắt nguồn từ một sự cố tháng 1 năm 2012, theo đó chính quyền đã cố gắng đuổi gia đình ông Vươn ra khỏi vùng đất nơi họ điều hành một doanh nghiệp tôm. Vào ngày 31/7, tòa án phúc thẩm đã giữ y án.
Theo các nguồn tin phi chính phủ, mức độ quan tâm của công chúng về quyền sử dụng đất và các liên quan với sự ổn định chính trị và xã hội đã dẫn đến cuộc kêu gọi sửa đổi Luật Đất đai năm 2003. Công dân đã hành động để bảo vệ quyền sử dụng đất của mình thông qua cả hai phương pháp chính thức và không chính thức. Số lượng khiếu nại về tranh chấp đất đai đã tăng lên đáng kể trong thập kỷ qua, chiếm 70% đến 90% của tất cả các kiến nghị và khiếu nại. Trong 10 tháng đầu năm 2012, các nguồn từ phi chính phủ báo cáo rằng hơn 97% của 3.193 kiến nghị gửi đến chính phủ liên quan vấn đề đất đai, chỉ có 1.106 nhận được câu trả lời. Người đứng đầu Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh, ước tính trong năm có ít nhất 500 chính thức, các trường hợp tranh chấp đất đai chưa được giải quyết.
Phần 2: Tôn trọng tự do công dân, bao gồm
a. Tự do ngôn luận và báo chí
Mặc dù Hiến pháp và luật cho phép tự do ngôn luận, bao gồm cả giới báo chí, Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng lực lượng an ninh đồ sộ và nhiều văn bản cấm nói xấu để hạn chế những tự do đó. Luật xác định những tội danh “phá hoại hạ tầng của chủ nghĩa xã hội”, “gây chia rẽ giữa những người có đạo và không theo đạo” và “tuyên truyền chống lại nhà nước” là những tội nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia. Luật cũng cấm “lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước và các tổ chức xã hội”.
Tự do ngôn luận: Chính phủ đã tiếp tục hạn chế những phát biểu phê phán cá nhân lãnh đạo, ủng hộ đa nguyên chính trị hoặc dân chủ đa đảng, hoặc chất vấn những chính sách về những vấn đề nhạy cảm, bao gồm nhân quyền, tự do tôn giáo hoặc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Chính phủ cũng tìm cách làm giảm những phê phán bằng cách theo dõi sự gặp gỡ và liên lạc giữa những người hoạt động chính trị.
Ngày 15/6, cảnh sát bắt giữ Đinh Nhật Uy vì “lạm dụng tự do dân chủ” (Điều 258) về những bài viết trên mạng kêu gọi chính quyền trả tự do cho người em Đinh Nguyên Kha, người đã bị kết án 8 năm tù giam trong tháng 5. Ngày 29/10, Uy bị Tòa án kết án 15 tháng án treo.
Chính quyền Việt Nam cho phép tranh luận ở một mức nào đó về chủ đề chính trị nhạy cảm. Từ 02/01 đến 30/9, chính quyền cho phép nhân dân góp ý vào bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ban đầu, thời gian góp ý tới 31/3, nhưng sau đó chính phủ kéo dài thời hạn để thu nhận thêm ý kiến của nhân dân. Chính phủ nói rằng họ đã tiếp nhận 26 triệu góp ý trong thời gian đó. Các buổi tọa đàm trực tiếp trên phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút sự tham gia của các nhân sỹ và cựu quan chức. Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới, và chủ tịch nước đã công bố bản Hiến pháp với vài thay đổi nhỏ, bỏ lơ các kiến nghị nhằm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam và cho phép dân chủ đa nguyên.
Mặc dù chính quyền ở nhiều nơi chấp nhận tranh luận chính trị trong thời gian đó, lãnh đạo của tờ báo nhà nước Gia đình & Xã hội đã sa thải nhà báo Nguyễn Đắc Kiên hôm 26/2 ngay sau khi anh này công bố một bài viết của mình trên blog cá nhân, trong đó nhà báo này phê phán Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng. Nhà báo Kiên cũng kêu gọi xóa bỏ Điều 4 của dự thảo Hiến pháp, một điều quy định sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản.
Tự do báo chí: Đảng Cộng sản Việt Nam, chính phủ và các cơ quan nhà nước kiểm soát việc in ấn, phát hành và báo điện tử. Chính phủ kiểm soát thông qua Bộ Thông tin và Truyền thông, dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương của đảng. Việc sản xuất các ấn phẩm báo chí bởi tư nhân và cá nhân bị cấm đoán. Chính quyền cho phép một số ấn phẩm của nước ngoài (bao gồm BBC và CNN), và luật yêu cầu các chương trình tivi nước ngoài phải được phát chậm lại 30 phút để có thể kiểm soát nội dung.
Phóng viên nước ngoài cho biết họ bị yêu cầu phải thông báo với chính quyền Việt Nam khi muốn di chuyển ngoài Hà Nội để viết về những chủ đề mà Việt Nam coi là nhạy cảm, hoặc tới những khu vực nhạy cảm như Tây Bắc và Tây Nguyên.
Luật hạn chế sự tiếp cận truyền hình vệ tinh tới cán bộ cao cấp, người nước ngoài, các khách sạn sang trọng và báo chí nhưng người dân ở khắp nước có thể tiếp cận truyền hình nước ngoài thông qua thiết bị vệ tinh và cáp. Truyền hình cáp, bao gồm một số kênh nước ngoài, đã được phổ biến ở các vùng thành thị.
Ngày 15/05, Quyết định 20 có hiệu lực sau nhiều lần trì hoãn. Cùng với các văn bản dưới luật khác, quyết định này yêu cầu các hãng truyền thông nước ngoài phải xin phép Bộ Thông tin và Truyền thông, và phải được dịch ra tiếng Việt bởi những cơ quan đã được chính phủ cho phép trước khi chương trình được trình chiếu. Trong một số trường hợp, các kênh truyền hình nước ngoài phải gánh chịu thêm chi phí dịch thuật. Mới chỉ có 16 kênh được cấp phép từ khi quyết định này có hiệu lực. Phản ứng lại quyết định này, một đơn vị cung cấp đã ngừng phát các kênh nước ngoài, và một số nhà cung cấp truyền hình khác cắt các kênh, như BBC và CNN. Tuy nhiên, một thời gian ngắn sau đó, các kênh này lại được phát sóng trở lại khi chính phủ nới lỏng việc áp dụng quyết định do sự phản đối của công chúng. Một số tổ chức nhân quyền đã chỉ trích quyết định này vì nó hạn chế tự do ngôn luận và giới hạn khả năng tiếp cận với các nguồn báo chí độc lập. Cho tới cuối năm, mặc dù quyết định vẫn còn hiệu lực, chính phủ không còn quyết liệt thực thi.
Bạo lực và Sách nhiễu: Lực lượng an ninh được cho là đã tấn công và đe dọa một số nhà báo bởi vì những bài viết của họ về những vấn đề nhạy cảm.
Vào ngày 24/4, hai nhà báo Hoàng Ngọc và Nam Phong thuộc trang điện tử Người đưa tin cho biết một sỹ quan cảnh sát giao thông đã tịch thu máy ghi hình của họ khi họ đang quay phim cảnh sát nhận hối lộ. Trong cùng ngày, hai nhà báo này bị hai người lạ mặt đe dọa.
Nhiều phóng viên ngoại quốc cho biết họ bị sách nhiễu bởi lực lượng an ninh, bao gồm cả đe dọa không gia hạn visa nếu họ tiếp tục viết về các chủ đề nhạy cảm.
Kiểm duyệt hoặc Giới hạn nội dung: Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tuyên giáo Trung ương liên tục can thiệp trực tiếp, hướng nội dung bài báo, hoặc kiểm duyệt nội dung. Hơn thế nữa, đảng và chính phủ kiểm soát nội dung truyền thông thông qua sự tự kiểm duyệt, nếu không người viết có nguy cơ bị sa thải hoặc bắt giam.
Chính quyền tiếp tục khống chế tự do báo chí. Nghị định 02 quy định mức phạt từ 1 triệu đồng đến 42 triệu đồng đối với nhà báo, báo giấy và báo điện tử nếu không đưa “tin tức quốc nội và quốc tế trung thực nhất, vì lợi ích của quốc gia và nhân dân”. Nghị định này cũng cho phép chính phủ phạt nhà báo và tờ báo dựa trên những xác quyết không minh bạch của nhiều bộ và quan chức. Hơn thế nữa, Nghị định thiết lập mức phạt từ 10.5 triệu đồng đến 21 triệu đồng đối với những nhà báo không công bố nguồn tin, và những nhà báo và tờ báo nếu “sử dụng những tài liệu của các tổ chức hoặc những tài liệu của cá nhân”.
Dưới sự quy định của chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông có quyền thu hồi giấy phép của nhà xuất bản ngoại quốc, và mỗi một nhà xuất bản ngoại quốc phải xin giấy phép hàng năm. Tuy nhiên, các sạp báo đường phố và các quầy hàng phục vụ du khách ngoại quốc thường bày bán những ấn phẩm bằng tiếng nước ngoài, nhiều ấn phẩm bị cấm. Các ấn phẩm định kỳ bằng tiếng nước ngoài được bày bán rộng rãi ở các thành phố lớn mặc dù chính quyền đôi khi kiểm duyệt nội dung.
Luật chống nói xấu/An ninh quốc gia: Luật yêu cầu các nhà báo phải bồi thường vật chất cho tổ chức, cá nhân về những tổn hại do bài báo gây ra, kể cả khi nội dung có chính xác. Một số nhà quan sát độc lập nhận thấy luật hạn chế các phóng sự điều tra. Mặc dù có một số phóng sự về những chủ đề nhạy cảm, ví dụ việc khởi tố quan chức đảng và chính quyền về tham nhũng hoặc phê phán quan chức hay các cơ quan nhà nước, việc tự do phê phán đảng cộng sản và lãnh đạo vẫn vô cùng hạn chế.
Ngày 15/6, cảnh sát bắt giữ Phạm Viết Đào, một nhà văn và một bloger người đã phê phán quan chức chính quyền trong những bài ông công bố dưới bút danh Phúc Lộc Thọ. Ông Đào là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và thành viên Hội Nhà báo Việt Nam và là nguyên Trưởng phòng Thanh tra Xuất bản và Báo chí.
Trong tháng 8, Cục Xuất bản thuộc Bộ TT & TT cấm lưu hành hai tập tiểu thuyết Đại gia của Nguyễn Xuân Hoàng, cũng có tên là Thiên Sơn. Tiểu thuyết này miêu tả sự liên quan giữa quan chức chính phủ và các tổng công ty nhà nước.
Tự do Internet
Chính phủ tiếp tục tiến hành nhiều biện pháp để kiểm soát sự tiếp cận mạng internet. Nó cho phép sự tiếp cận mạng nhưng thông qua một số lượng ít nhà cung cấp dịch vụ là các công ty của nhà nước hoặc dưới sự quản lý chặt của cơ quan nhà nước. Theo thống kê của chính phủ, gần 36% công dân được tiếp cận với mạng Internet.
Chính phủ sử dụng tường lửa để ngăn cản sự truy cập vào một số trang mạng mà nó cho là mang tính chính trị hoặc không phù hợp văn hóa, bao gồm cả những trang của các nhóm chính trị người Việt ở nước ngoài. Hơn thế nữa, chính phủ đôi khi chặn các trang BBC và Đài Tự do Châu Á.
Một số điều gây tranh cãi của luật và quy định như cấm tuyên truyền chống nhà nước, đã ngăn cản các blogger đăng tải những bài viết mà chính phủ cho rằng gây hại cho an ninh quốc gia, làm lộ bí mật quốc gia hoặc kích động bạo lực và tội phạm. Những điều luật trên ngăn cản các cá nhân phát tán những tài liệu mà chính phủ coi là chỉ trích. Trong năm, chính phủ đàn áp giới blogger bằng những vụ bắt bớ mang màu sắc chính trị. Chính quyền cũng sử dụng các biện pháp không truyền thống để đàn áp như bắt giữ trong thời gian ngắn, theo dõi, truy cập trái phép tài khoản email cá nhân, đe dọa trực tiếp và gián tiếp các cá nhân và thân nhân, và lục soát tài sản cá nhân.
Luật cũng yêu cầu các công ty mạng toàn cầu có cung cấp dịch vụ blogging báo cáo định kỳ 6 tháng một lần, và nếu được chính phủ yêu cầu, thì cung cấp thông tin của blogger cho chính phủ. Nhiều nhà văn, nhà báo có các trang blog, nhiều trong số đó mang lại sự tranh cãi hơn là các bài viết chính, theo các nhà quan sát. Trong một số trường hợp, chính quyền phạt và trừng phạt các cá nhân đó vì nội dung của các blog của họ.
Quy định của Bộ TT và TT yêu cầu các công ty Internet, các website xã hội và các website khác, cung cấp các thông tin về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, phải đăng ký và có giấy phép của chính phủ trước khi hoạt động. Bộ này cũng yêu cầu chủ các trang website trình báo về nội dung và tiêu chí của website để chính phủ xét duyệt. Việc áp dụng luật mang tính chọn lọc
Chính phủ cấm tiếp cận trực tiếp các trang mạng thông qua các nhà cung cấp dịch vụ ngoại quốc, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ trong nước phải lưu trữ các thông tin truyền tải qua internet ít nhất 15 ngày, và yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ phải hỗ trợ kỹ thuật cho các nhân viên an ninh, giúp họ quản lý được các hoạt động internet. Chính phủ yêu cầu các quán café internet phải đăng ký thông tin của khách hàng và lưu trữ các trang mà khách hàng đã truy cập. Chính phủ cũng yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng và quán café internet tham gia vào việc điều tra các hoạt động online. Việc tuân thủ các quy định đó của các nhà cung cấp dịch vụ mạng không rõ ràng. Mặc dù công dân mạng có thể tiếp cận các trang mạng nhiều hơn, chính phủ theo dõi email, tìm các từ khóa nhạy cảm, và quản lý nội dung internet.
Ngày 15/7, Chính phủ ban hành Nghị định 72 có hiệu lực từ ngày 01/9. Nghị định này thêm các hạn chế mới về chia sẻ các bài báo đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những từ ngữ mơ hồ của nghị định hạn chế quyền tự do phát ngôn và tăng sự bất ổn liên quan đến việc lưu trữ, chuyển tải và chia sẻ những thông tin trong nước. Nghị định này cũng cấm triệt để việc sử dụng các dịch vụ internet để chống đối chính phủ, gây hại cho an ninh quốc gia, trật tự xã hội và an toàn, hoặc tuyên truyền chiến tranh, kích động khủng bố, căm thù, bạo lực và mê tín.
Chính quyền thành phố và các tỉnh đã ban hành thêm các luật lệ tại địa phương mình nhằm kiểm soát việc truy cập internet. Các quán café phải lắp đặt các chương trình phần mềm của chính phủ để theo dõi các hoạt động của khách hành. Quán café internet bị buộc phải cách xa trường học, và phải ngắt mạng từ 23 g đêm đến 6h sáng hôm sau, nhằm ngăn chặn việc chơi game trực tuyến.
Việc ngăn chặn Facebook ít xảy ra hơn so với những năm trước, và không thường xuyên giữa các nhà cung cấp dịch vụ, các vùng, và thời điểm. Một số người cho biết họ đã sử dụng các biện pháp để vượt tường lửa. Một số nguồn cho biết số lượng tài khoản Facebook đạt con số 20 triệu vào tháng 10.
Chính quyền bắt giữ và bỏ tù một số nhà hoạt động, những người đã sử dụng internet để chỉ trích chính phủ và đăng tải những tài liệu về nhân quyền và dân chủ đa nguyên. Chính quyền thường sử dụng Điều 258 (lợi dụng tự do dân chủ) hoặc Điều 79 (âm mưu lật đổ nhà nước) để kết tội những người này.
Trong ngày 9/01, Tòa án tỉnh Nghệ An kết án 13 công dân dòng Chúa Cứu thế về tội “âm mưu lật đổ nhà nước”. Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu và Lê Văn Sơn bị tòa xử mỗi người 13 năm tù vì có liên quan đến đảng Việt Tân. Mười người khác bị án từ 3 đến 6 năm tù giam.
Các công ty dịch vụ internet của nhà nước thường xuyên chặn các trang web tiếng Việt ở trong nước nếu các trang này chứa các nội dung chỉ trích đảng cộng sản hoặc cổ súy cải tổ chính trị. Chính phủ cũng thường chặn các trang web tiếng Việt ở nước ngoài, cụ thể là các trang chỉ trích chính quyền hoặc có các bài báo phản ánh những việc xấu trong nước. Thêm nữa, hai trang web liên quan đến bộ tộc Dega ở Tây Nguyên cũng bị chặn.
Những người bất đồng chính kiến và các blogger cho biết họ thường xuyên bị cắt bỏ dịch vụ internet theo yêu cầu của lực lượng an ninh.
Tự do Nghiên cứu và các Sự kiện Văn hóa
Chính phủ vẫn duy trì hạn chế tự do nghiên cứu, và nhiều khi chính quyền theo dõi các nhà nghiên cứu nước ngoài. Các nghiên cứu viên nước ngoài làm việc tạm thời ở các trường đại học trong nước có thể tranh luận tự do về các đề tài không phải là chính trị ở trong lớp học, nhưng nhân viên chính phủ thường xuyên dự các lớp học của các giảng viên nước ngoài và trong nước. Các báo cáo khoa học thường xuyên phản ánh quan điểm của đảng và chính phủ.
Chính phủ tiếp tục hạn chế việc các cơ quan trong nước và quốc tế tổ chức các buổi hội thảo với sự tài trợ hoặc tham dự của các định chế quốc tế bằng việc yêu cầu có sự chấp thuận của chính phủ trước ít nhất 20 ngày.
Chính phủ tiếp tục cấm các tổ chức khoa học và kỹ thuật độc lập phê phán chính sách của đảng và nhà nước, và từ chối các cơ hội học tập của các cá nhân phê phán chính phủ. Nhà hoạt động Nguyễn Phương Uyên cho biết trường đại học nơi cô học đã từ chối cho cô tiếp tục học sau khi Uyên được trả tự do vào ngày 16/8. Cô cho biết trường đã đuổi học cô vào tháng 10.
Mặc dù chính phủ kiểm soát các buổi trưng bày nghệ thuật, nhạc và các hoạt động văn hóa khác, nó tiếp tục cho phép các nghệ sỹ tự chọn các đề mục cho hoạt động của mình. Chính phủ cũng cho phép các trường đại học tự chủ hơn về trao đổi và hợp tác quốc tế.
b. Tự do hội họp và lập hội
Tự do hội họp
Luật hạn chế tự do hội họp, và chính phủ tiếp tục hạn chế và kiểm soát mọi hình thức biểu tình và tụ họp. Luật yêu cầu những người muốn tụ họp phải xin phép, mà chính quyền địa phương có thể từ chối. Chỉ những vụ tụ họp mang các nội dung nhạy cảm là bị yêu cầu xin phép. Chính phủ không cho phép các vụ tụ họp mang tính chính trị, cũng như hạn chế hành lễ của một số nhóm tôn giáo bất hợp pháp.
Những cuộc biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải ở Biển Đông liên tục xảy ra trong năm ở Hà Nội và chính quyền thành phố đã bắt giữ và theo dõi những người cầm đầu cuộc biểu tình. Một số người cho biết họ bị lực lượng an ninh ngăn cản không cho họ rời khỏi nhà để tham gia vào các cuộc biểu tình này.
Ngày 05/5, cảnh sát ngăn cản các nhà hoạt động xã hội tụ tập ngoài trời và phân phát bản nhân quyền ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang. Một số người định tham gia sự kiện bị bắt và đánh đập. Trong mấy ngày của tháng 12, nhiều cá nhân tham gia ngày Nhân quyền ở ba thành phố trên và Đà Nẵng, bị quấy nhiễu, theo dõi và bị tịch thu giấy tờ cá nhân và điện thoại. Ít nhất hai người bị bắt giữ trong một thời gian ngắn.
Tự do lập hội:
Chính quyền tiếp tục hạn chế tự do lập hội, không cho phép thành lập đảng đối lập mặc cho sự cố gắng của một số cựu đảng viên cộng sản. Chính quyền cấm thành lập các tổ chức tư nhân độc lập, cho rằng đã có Mặt trận Tổ quốc đại diện cho tất cả mọi người. Một số tổ chức, bao gồm cả một số nhóm tôn giáo không đăng ký, vẫn có thể hoạt động mà không bị nhà nước can thiệp, hoặc can thiệp rất ít.
c. Tự do tôn giáo
Xem trong báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đăng tải tại: www.state.gov/j/drl/irf/rpt/.
d. Tự do đi lại, người di cư, bảo vệ người tỵ nạn và người không tổ quốc
Luật quy định tự do đi lại trong nước, ra nước ngoài, di cư, và hồi hương, nhưng chính phủ có đặt ra hạn chế việc đi lại của một số cá nhân. Chính phủ cộng tác với Cao ủy Liên Hợp quốc về người tỵ nạn (Office of the UN High Commissioner for Refugees – UNHCR) và một số tổ chức nhân đạo khác để trợ giúp những người di cư nội địa, người tỵ nạn, người tỵ nạn hồi hương, người xin tỵ nạn, và người không tổ quốc, và một số dạng người khác.
Chính quyền địa phương không ngăn cản các cuộc thăm viếng tìm hiểu của phái đoàn UNHCR đến các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, Huế, Đà Nẵng và Tây Bắc. Chính quyền các tỉnh thường cam kết giúp đỡ những người dân tộc thiểu số trở về từ Campuchia trong việc tái hòa nhập cộng đồng.
Di chuyển nội địa: Một số cựu tù chính trị như Phạm Hồng Sơn, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nhật Uy, bị hạn chế đi lại trong thời gian quản thúc tại gia.
Chính phủ quy định việc hạn chế đi lại tới một số nơi. Người dân thường và người nước ngoài phải có giấy phép mới được đến khu vực biên giới, khu vực quân sự, các khu công nghiệp liên quan đến quốc phòng, khu dự trữ chiến lược, và những công việc thuộc dạng tối quan trọng trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và mục tiêu xã hội.
Cảnh sát địa phương yêu cầu công dân phải đăng ký tạm trú khi muốn ở lại qua đêm tại một địa điểm ngoài nhà của mình, và chính phủ áp dụng việc này một cách chặt chẽ ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc. Những người mang hộ chiếu nước ngoài cũng phải đăng ký khi họ ở lại nhà dân, mặc dù chưa có trường hợp nào chính quyền địa phương từ chối không cho khách ngoại quốc ở lại gia đình bạn bè.
Chính quyền địa phương không tuân thủ triệt để luật cư trú, và việc di dân từ vùng nông thôn tới khu vực thành thị trở thành phổ biến. Tuy nhiên, nếu di chuyển không có giấy phép, người di trú sẽ gặp phải khó khăn trong việc làm giấy tờ thường trú, học hành và không được hưởng các dịch vụ y tế.
Xuất cảnh: Quan chức chính quyền đôi khi trì hoãn việc cấp hộ chiếu cho công dân với mục đích vòi tiền hối lộ. Một số người muốn di cư ra nước ngoài đôi khi gặp khó khăn trong việc làm hộ chiếu.
Cấm xuất cảnh: việc cấm xuất cảnh, là một biện pháp trừng phạt đối với những người đòi tự do ngôn luận.
Trong tháng 9, chính quyền không cho Đặng Hữu Hoàng Gia, một thành viên của Hội Ái hữu Cựu tù chính trị và tôn giáo, đi sang Manila để dự một khóa học về xã hội dân sự tổ chức bởi Vietnamese Observers Initiative for Conscience Empowerment .
Mặc dù thời hạn quản chế đã hết, chính phủ tiếp tục ngăn cấm Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Kim Thu, Vũ Quốc Tú, Lê Trần Luật và một số người khác làm hộ chiếu và xuất cảnh.
Di cư và hồi hương: Chính quyền nói chung cho phép những người định cư ở nước ngoài trở về thăm gia đình, nhưng có ngăn cấm một số nhà hoạt động hoặc một số cá nhân ở nước ngoài trở về Việt Nam. Cảnh sát cũng từ chối không cấp visa hoặc bắt giữ hoặc trục xuất những nhà hoạt động chính trị người Việt khi họ trở về cố quốc.
Chính phủ tiếp tục thực hiện thỏa thuận đã ký kết với Campuchia và UNHCR để tiếp nhận những người thuộc sắc tộc thiểu số trở về từ Campuchia khi họ không được phép định cư ở một nước thứ 3.
Bảo vệ người tỵ nạn
Quy trình tiếp nhận đơn tỵ nạn: Luật không quy định việc tiếp nhận tỵ nạn và quy chế tỵ nạn và do đó chính phủ không thiết lập các định chế để bảo vệ người tỵ nạn.
Nước tạm dung cho người xin tỵ nạn: Chính phủ không có các quy định về việc bảo vệ chống lại trục xuất hay cưỡng bách hồi hương về lại nơi mà mạng sống và sự tự do của họ bị đe dọa vì lý do sắc tộc, tôn giáo, màu da, thành viên của một tổ chức xã hội hoặc chính trị. Chưa có một báo cáo nào về vấn đề này trong năm.
Người không tổ quốc:
Theo luật, chính quyền coi mọi người là công dân của đất nước nếu có ít nhất bố hoặc mẹ là người Việt Nam. Luật cũng có những điều khoản trong đó quy định một người không có bố mẹ là người Việt Nam, có thể trở thành công dân của nước Việt Nam, trong một điều kiện nhất định.
Nhóm người không tổ quốc nhiều nhất là nhóm có khoảng 10,000 người gốc Campuchia, theo số liệu thống kê của UNHCR. Những người này đã tìm cách nhập tịch Việt Nam từ những năm 1970 và họ bị từ chối không được trở về cố quốc bởi chính quyền Campuchia vì phía Campuchia cho rằng nhóm người này không có căn cứ để trở thành công dân của nước này.Đó là nhóm người Hoa thiểu số và người Việt Nam mà chính quyền cho ở trong bốn trại tỵ nạn ở trong và gần thành phố Hồ Chí Minh. Khi việc trợ giúp những trại này bị xóa bỏ năm 1994, khoảng 6 đến 7 nghìn người bỏ trại đi tìm việc làm ở Sài Gòn và các vùng lân cận. Khoảng 1,000-1,500 người ở lại bốn làng trước kia là trại tị nạn, nhưng họ và con cái của họ không bao giờ được hưởng các quyền như người Việt Nam, bao gồm cả quyền được sở hữu bất động sản, tiếp cận giáo dục và chăm sóc y tế.
Với sự cố gắng của chính phủ Việt Nam và UNHCR, 287 người trong số họ được công nhận là công dân Việt Nam trong năm 2010. Một báo cáo vào tháng 9 năm 2013 cho biết toàn bộ 2,357 người trong bốn làng đã được công nhận là dân địa phương. Hơn thế nữa, chính quyền đã làm việc với những người tỵ nạn Campuchia sống ở thành phố Hồ Chí Minh, và cuối năm 2012, 6,700 người được nhận quốc tịch Việt Nam. Theo ước tính của chính quyền, có khoảng 200 người đang chờ thủ tục để nhận quốc tịch.
Hội Phụ nữ, một tổ chức xã hội do đảng cộng sản kiểm soát, tiếp tục làm việc với chính phủ Hàn Quốc về môi giới hôn nhân và hỗ trợ tiền hôn nhân, bao gồm giáo dục và quy định về nhập tịch. Một số tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế cũng hỗ trợ.
Phần 3: Tôn trọng quyền chính trị: Quyền của công dân để thay đổi chính phủ
Hiến pháp không quy định quyền của công dân để thay đổi chính phủ một cách ôn hòa, và công dân không có quyền lựa chọn quan chức chính phủ.
Bầu cử và tham dự chính trị
Các cuộc bầu cử gần đây: Bầu cử gần đây nhất là vào năm 2010 để lựa chọn đại biểu quốc hội- không tự do cũng chẳng công bằng. Mặt trận Tổ quốc là cơ quan lựa chọn ứng cử viên. Tỷ lệ giữa “ứng cử viên độc lập” (là những người không có liên hệ với tổ chức nào) và các ứng cử viên khác thấp hơn lần bầu cử năm 2007. Đảng cho phép 15 ứng viên độc lập, những người không được chính phủ đứng đằng sau. Một số báo cáo cho biết quan chức đảng đã yêu cầu một số ứng viên độc lập rút lui và số khác bị coi là không hợp lệ.
Theo số liệu của chính phủ, hơn 99% người đủ điều kiện đi bầu cử đã tham gia bầu cử năm 2011, một con số quá cao theo các nhà quan sát quốc tế. (Một người có thể bầu cử cho nhiều người khác, và chính quyền coi là hợp lệ). Trong số 500 đại biểu quốc hội được bầu, có 458 là ứng viên của đảng cộng sản. Có 4 trong số 15 ứng cử viên độc lập trúng cử.
Quốc hội, mặc dù bị đảng khống chế (các vị trí lãnh đạo đều do quan chức cao cấp của đảng nắm giữ, và hơn 90% đại biểu là đảng viên), đang tìm cách hoạt động như một cơ quan lập pháp.
Ví dụ, theo một luật có hiệu lực từ 01/01, chủ tịch nước, thủ tướng, các thành viên chính phủ, chánh án toàn án tối cao, và chủ tịch quốc hội đều chịu sự bỏ phiếu tín nhiệm bởi quốc hội. Vào ngày 11/6, trong lần bỏ phiếu tín nhiệm đầu tiên, 160 đại biểu trong tổng số 500 đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm thấp cho thủ tướng, và một số quan chức cao cấp khác cũng nhận được sự tín nhiệm thấp. Nhiều nhà quan sát bình luận rằng sự tín nhiệm thấp phản ánh sự phê phán của dân chúng đối với đảng và chính phủ trong điều kiện không có sự lựa chọn “không tín nhiệm”.
Đảng chính trị: Hiến pháp quy định tất cả quyền lực chính trị thuộc về đảng cộng sản và Hiến pháp thừa nhận sự lãnh đạo của đảng. Bộ Chính trị là cơ quan tối cao quyết định mọi vấn đề của đất nước, mặc dù trên lý thuyết quyền này thuộc về Ban Chấp hành Trung ương đảng. Các phong trào chính trị đối lập và các đảng phái khác là bất hợp pháp.
Chính phủ tiếp tục hạn chế dân chúng bàn tán và chỉ trích nhà nước độc đảng. Ngược lại với những năm trước, chính phủ có thể cho phép một số chỉ trích nhà nước trong thời gian góp ý vào dự thảo Hiến pháp từ 01/01 đến 30/9. Một số nhóm và cá nhân kêu gọi xóa bỏ Điều 4 và cho phép dân chủ đa đảng.
Nhiều công dân đã gửi các kiến nghị về những chính sách của chính phủ. Thành viên của Nhóm 8406 và những nhóm hoạt động chính trị khác, những người kêu gọi đa đảng, tiếp tục bị sách nhiễu và tù đày.
Trong tháng 5, khoảng 70 cá nhân, bao gồm cựu tù chính trị Nguyễn Văn Đài, thành lập một tổ chức chính trị lấy tên là Hội Anh em Dân chủ để tiến hành các hoạt động dân chủ theo nhóm.
Trong tháng 8, truyền thông nhà nước thực hiện chiến dịch đánh phá Lê Hiếu Đằng, người có 45 năm tuổi đảng, sau khi ông tuyên bố thành lập Đảng Xã hội Dân chủ, một tổ chức chính trị mà ông gọi là đảng đối lập.
Sự tham dự của phụ nữ và người dân tộc thiểu số: Luật quy định sự bình đẳng về chính trị đối với phụ nữ và người dân tộc thiểu số. Có 122 đại biểu quốc hội (chiếm khoảng 24%) là phụ nữ, hai bộ trưởng là nữ trong tổng số 28 thành viên chính phủ, một phụ nữ là ủy viên Bộ Chính trị, nhưng không có phụ nữ nào là thành viên của Tòa án Nhân dân tối cao gồm 17 người.
Người dân tộc thiểu số có 78 ghế (khoảng 16%) trong Quốc hội.
Phần 4: Tham nhũng và Thiếu minh bạch của Chính phủ
Luật quy định tội hình sự cho việc tham nhũng của quan chức chính phủ, tuy nhiên, không phải lúc nào chính phủ cũng áp dụng luật một cách triệt để, và trong một số trường hợp, quan chức tham nhũng không bị truy tố.
Tham nhũng: Tham nhũng tiếp tục là vấn đề chính. Chính phủ luôn nói nỗ lực chống tham nhũng, bao gồm công bố ngân sách trung ương, thiết lập các biện pháp thanh tra, và đôi khi công bố rộng rãi một số cán bộ tham nhũng.
Luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi có hiệu lực từ 01/02. Nó cho phép công dân tố cáo về sự thiếu hiệu quả của chính quyền, những thủ tục hành chính rườm ra, tham nhũng và chính sách kinh tế, mặc dù chính phủ coi phê phán chính trị công khai là tội danh trừ phi chính quyền kiểm soát được. Do đó, luật không cho phép những công dân bị ảnh hưởng thành lập những tổ chức để hành động, và những cá nhân đứng đầu có thể bị bắt.
Tham nhũng gắn với sử dụng đất đai đã được phản ánh rộng rãi trên báo chí, trong nỗ lực gây áp lực cho các quan chức địa phương để giảm việc lạm quyền.
Tham nhũng trong lực lượng cảnh sát vẫn là một vấn đề nghiêm trọng ở tất cả các cấp, và nhiều cảnh sát được quyền miễn trừ. Lực lượng giám sát trong ngành công an có tồn tại nhưng lại bị ảnh hưởng bởi các lực lượng chính trị. Nhiều tổ chức nước ngoài tiến hành các đối thoại hàng năm về chống tham nhũng như một phần của chương trình trợ giúp chính phủ. Trước đó có các đối thoại tập trung vào hạn chế tham nhũng trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, và xây dựng.
Trong tháng 1, Đảng cộng sản tái lập Ban Nội chính trung ương nhằm đối phó với tham nhũng, do ông Nguyễn Bá Thanh, một chính trị gia Đà Nẵng đứng đầu.
Ngày 16/7, Tòa án Nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh kết án một nhóm cựu quan chức và lãnh đạo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) về tội vi phạm quy định về cho vay, tạo điều kiện cho một doanh nhân chiếm đoạt 112 tỷ đồng của ngân hàng. Đào Phương Thế, nguyên Trưởng phòng kế hoạch, và Huỳnh Trung Hiếu, nguyên cán bộ tín dụng của ngân hàng, bị 12 và 22 năm tù giam tương ứng trong khi Nguyễn Hữu Long, cựu phó giám đốc chi nhánh, bị kết án 10 năm sáu tháng tù giam.
Vào tháng 9, chính quyền thành phố HCM và đảng bộ địa phương đã kỷ luật lãnh đạo của bốn công ty dịch vụ về vi phạm kỷ luật lao động. Bốn cán bộ này tự cho mình mức lương 2.7 tỷ một năm. Lương trung bình của mỗi một giám đốc của bốn công ty này là 220 triệu/tháng so với mức lương trung bình 7.3 triệu đồng ở các công ty nhà nước.
Bảo vệ người tố giác: Luật không quy định việc bảo vệ những người tố cáo về các hành động vi phạm luật, lãng phí hoặc lừa dối, quản lý yếu kém, lạm dụng quyền hạn, hoặc gây hại cho sức khỏe và an toàn cộng đồng.
Kê khai tài chính: Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi yêu cầu quan chức cao cấp và các đại biểu quốc hội phải công khai thu nhập và tài sản cá nhân, và giải trình sự thay đổi tài sản hàng năm. Trước đây, chính quyền không công bố những công khai này cho công chúng. Thêm vào đó, lãnh đạo cơ quan có quyền yêu cầu nhân viên kê khai tài sản. Luật không có điều khoản trừng phạt việc không chấp hành việc kê khai tài chính, mặc dù Nghị định 78 quy định người vi phạm có thể bị khiển trách, cảnh cáo, đình chỉ, hoặc sa thải.
Tiếp cận thông tin của công chúng: Luật không cho phép công chúng được tiếp cận thông tin của chính phủ, và chính phủ thường không cung cấp thông tin cho dân chúng cũng như truyền thông nước ngoài. Tuân thủ theo luật, các báo chí chính thống thường đăng tải những văn bản luật trong các số báo hàng ngày nhưng không đăng tải các văn bản của đảng, các quyết định của Bộ Chính trị. Chính phủ và quốc hội có trang thông tin điện tử bằng cả hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh. Thêm nữa, việc tiếp cận các quyết định của Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao là có thể trong phần lớn thời gian, mặc dù đối các cá nhân rất khó tiếp cận thông tin của chính phủ.
Phần 5: Thái độ của chính phủ đối với việc các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ điều tra vi phạm nhân quyền
Chính phủ không cho phép việc thành lập và hoạt động của các tổ chức nhân quyền địa phương, tư nhân và cũng không cho phép các tổ chức và cá nhân có những bình luận công khai về thực thi nhân quyền. Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế sự phê phán ở trong nước về chính sách nhân quyền, bao gồm theo dõi, bắt bớ, truy tố và giam giữ, can thiệp vào sự liên lạc cá nhân, và hạn chế việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tụ họp.
Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế: Chính phủ nói cung cấm các công dân tiếp xúc với các tổ chức nhân quyền quốc tế, mặc dù một số nhà hoạt động vẫn làm. Chính phủ thường không cho phép các tổ chức nhân quyền phi chính phủ viếng thăm Việt Nam, mặc dù nó cho phép đại diện của các tổ chức UNHCR, báo chí, chính phủ nước ngoài, và các tổ chức phi chính phủ về phát triển và cứu trợ đi đến Tây Nguyên. Trong tháng 2, chính phủ cho phép quan chức cao cấp của Ân xá Quốc tế viếng thăm 6 ngày. Chính phủ cho phép quan chức Liên Hợp quốc đặc trách về quyền văn hóa thăm năm 2013, và mời quan chức đặc trách về tự do tôn giáo và đức tin thăm đất nước trong năm 2014. Chính phủ phản đối mạnh mẽ các thông cáo báo chí của các chính phủ nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ quốc tế về vi phạm nhân quyền và tôn giáo của Việt Nam.
Cơ quan nhân quyền của chính phủ: Việt Nam không có cơ quan, quan chức chuyên trách về nhân quyền hay ủy ban của quốc hội về vấn đề nhân quyền. Chính phủ đã tiếp tục đàm luận song phương về vấn đề nhân quyền với vài chính phủ ngoại quốc và tiến hành các buổi gặp gỡ, bao gồm cả những đối thoại hàng năm về nhân quyền.
Phần 6. Phân biệt đối xử, bất công xã hội, và buôn bán người
Pháp luật cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính, khuyết tật, ngôn ngữ, hoặc địa vị xã hội, nhưng việc thực hiện các quy định cấm phân biệt này không đồng đều, và luât pháp không đề cập đến phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hay giới tính.
Phụ nữ
Hiếp dâm và bạo lực gia đình: Luật pháp nghiêm cấm sử dụng hoặc đe dọa bạo lực đối với phụ nữ hoặc lợi dụng một người không thể hành động tự vệ. Pháp luật cũng hình sự hóa tội hiếp dâm, trong đó có hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng. Người hiếp dâm có thể chịu từ 2 đến 7 năm tù giam. Trong trường hợp nghiêm trọng của tội hiếp dâm, bao gồm hiếp dâm có tổ chức, tội phạm, hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho nạn nhân, có thể bị từ 7 đến 15 năm tù. Theo báo cáo thì nhà chức trách đã khởi tố toàn bộ các vụ án hiếp dâm, nhưng chính phủ không công bố thống kê các vụ bắt giữ, truy tố, kết án hay trừng phạt.
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã trở nên phổ biến. Một báo cáo đặc biệt của LHQ năm 2010 phát hiện ra rằng 58 phần trăm phụ nữ có chồng đã từng là nạn nhân của bạo lực thân thể, tình dục, hoặc tình cảm. Cơ quan chức năng xử lý các trường hợp bạo lực gia đình trong phạm vi quan hệ dân sự, trừ khi nạn nhân bị thương lên đến hơn 11 phần trăm cơ thể. Pháp luật quy định cụ thể hành vi cấu thành bạo lực gia đình, phân công trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan chính phủ và các bộ ngành khác nhau, và quy định hình phạt cho kẻ phạm tội khác nhau, từ cảnh cáo và quản chế cho đến ba tháng hoặc ba năm tù giam. Các tổ chức phi chính phủ và những người ủng hộ cho rằng có nhiều quy định yếu kém, và chính phủ đã không có thống kê các vụ bắt giữ, truy tố, kết án, hay trừng phạt. Các quan chức thừa nhận bạo lực gia đình là mối quan tâm lớn của xã hội, và trong năm các phương tiện truyền thông bàn luận rộng mở về chủ đề này.
Trong tình hình cảnh sát và hệ thống pháp luật nói chung vẫn không được trang bị để đối phó với trường hợp bạo lực gia đình, chính phủ với sự giúp đỡ của các tổ chức NGO quốc tế và trong nước đang tiếp tục đào tạo cảnh sát, luật sư, và các quan chức về hệ thống pháp luật.
Theo một báo cáo vào tháng Hội Phụ nữ Việt Nam TƯ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan chức năng ghi nhận 178.847 trường hợp bạo lực gia đình từ năm 2009 đến giữa năm 2012, trong đó có hơn 16.000 trường hợp liên quan đến những người lớn tuổi và 23.300 liên quan đến trẻ em, phần còn lại đa số là liên quan đến các cặp vợ chồng, chủ yếu là người vợ.
Một số tổ chức NGO trong nước và quốc tế làm việc để giải quyết nạn bạo lực gia đình. Các tổ chức phi chính phủ trong nước mở đường dây nóng cho các nạn nhân ở các thành phố lớn. Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, được hỗ trợ bởi Hội Phụ nữ, cũng điều hành một đường dây nóng trên toàn quốc, mặc dù không được quảng bá rộng rãi trong khu vực nông thôn. Mặc dù khu vực nông thôn thường thiếu nguồn lực tài chính để hình thành các trung tâm hỗ trợ khủng hoảng và đường dây nóng, một bộ luật thiết lập “khu dân cư đáng tin cậy” cho phép các phụ nữ tiếp cận gia đình khác trong khi chính quyền địa phương và lãnh đạo cộng đồng cố gắng đối phó với kẻ bạo hành và giải quyết khiếu nại. Có 300 hộ dân như vậy trong nước, tất cả được xây dựng thông qua Hội Phụ nữ ở cấp xã. Nhiều phụ nữ vẫn còn trong tình trạng bị lạm dụng trong quan hệ hôn nhân để khỏi phải đối mặt với sự kỳ thị xã hội và gia đình cũng như bất ổn về kinh tế.
Chính phủ, với sự giúp đỡ của các tổ chức NGO quốc tế, tiếp tục hỗ trợ các hội thảo và chuyên đề nhằm mục đích giáo dục phụ nữ và nam giới về bạo lực gia đình và quyền của phụ nữ nói chung và nhấn mạnh vấn đề thông qua các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng. Các tổ chức phi chính phủ địa phương liên kết với Hội Phụ nữ vẫn gắn kết về các mối quan tâm về phụ nữ, đặc biệt là bạo lực đối với phụ nữ và buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Quấy rối tình dục: Không có luật cấm quấy rối tình dục của người lớn, và không có luật bảo vệ người lao động bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc, cho dù pháp luật cấm người sử dụng lao động phân biệt đối xử đối với lao động nữ hay xúc phạm nhân phẩm và danh dự của họ. Một bộ luật lao động đang nghiêm cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Các ấn phẩm và đào tạo về quy định đạo đức cho nhân viên chính phủ và các công chức khác không đề cập đến vấn đề này, mặc dù nó tồn tại.
Các nạn nhân bị quấy rối tình dục có thể liên hệ với tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ để yêu cầu tham gia. Các nạn nhân tiếp cận với một đại diện công đoàn lao động có quyền khiếu nại với cán bộ công đoàn. Trong trường hợp nghiêm trọng, nạn nhân có thể kiện người phạm tội theo một điều khoản đối phó với việc “làm nhục người khác” và hình phạt cụ thể bao gồm cảnh cáo, cải tạo cho đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Tuy nhiên, không có truy tố hoặc kiện cáo về quấy rối tình dục trong năm, và hầu hết các nạn nhân đều không muốn tố cáo người phạm tội công khai.
Quyền sinh sản: Hiến pháp buộc xã hội, gia đình, và tất cả các công dân thực hiện “chương trình kế hoạch hóa dân số và gia đình.” Luật pháp khẳng định quyền của cá nhân lựa chọn biện pháp tránh thai, tiếp cận với chẩn đoán phụ khoa, điều trị và kiểm tra sức khỏe khi mang thai, và có được các dịch vụ y tế khi sinh con tại cơ sở y tế, và chính phủ thường thực thi các quy định này. Tuy nhiên, phụ nữ chưa lập gia đình tại độ tuổi sinh đẻ tiếp tục bị tiếp cận hạn chế hoặc không được tiếp cận các biện pháp tránh thai có trợ cấp do thiếu hụt phương tiện mà chính phủ vốn đã phê duyệt. Sự kỳ thị xã hội đối với phụ nữ chưa lập gia đình mà tìm biện pháp tránh thai tiếp tục làm hạn chế việc tiếp cận các biện pháp tránh thai. Chính phủ phân bổ nguồn lực bổ sung cho các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình năm 2010 với mục tiêu tăng tỉ lệ ngừa thai đến 80 phần trăm vào năm 2015.
Chiến lược Dân số và Sức khỏe Sinh sản cho 2011-20 áp dụng cho tất cả các công dân và phấn đấu để duy trì số con trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản là 1,8. Chính phủ, chủ yếu thông qua các chiến dịch truyền thông rộng rãi, duy trì khuyến khích mạnh mẽ kế hoạch hóa gia đình. Một nghị định được Bộ Chính trị ban hành khiển trách đảng viên Đảng Cộng sản nếu họ có ba con, giáng chức nếu họ có bốn người con, và trục xuất khỏi Đảng nếu họ có năm người con. Vi phạm các nghị định cũng tăng khả năng chấm dứt việc làm và giảm khả năng thăng tiến.
Phân biệt đối xử: Pháp luật quy định về bình đẳng giới trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống, nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục phải đối mặt với sự kỳ thị của xã hội. Mặc dù phần lớn pháp luật và các quy định là nhằm để bảo vệ quyền phụ nữ trong hôn nhân và công việc, ngay cả quy định ưu tiên, nhưng phụ nữ luôn luôn không nhận được đối xử bình đẳng. Họ tiếp tục bị phân biệt đối xử vì họ không được phép làm việc trong tất cả các ngành công nghiệp và giờ giấc làm việc giống như nam giới (do mang thai hoặc cho con bú). Hơn nữa, không có luật cấm người sử dụng lao động hỏi han về tình trạng gia đình trong phỏng vấn việc làm. Phụ nữ dự kiến sẽ nghỉ hưu ở tuổi 55, so với tuổi 60 đối với nam giới.
Mặc dù pháp luật quy định về quyền thừa kế bình đẳng cho nam giới và phụ nữ, phụ nữ tiếp tục phải đối mặt với sự phân biệt văn hóa: Một người con trai có nhiều khả năng thừa kế tài sản hơn một người con gái, trừ trường hợp quy định bằng văn bản pháp lý. Một nghiên cứu, được tài trợ bởi Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc năm 2012 (UNDP), về quyền sử dụng đất đã kết luận rằng pháp luật và quan niệm văn hóa hạn chế phụ nữ tiếp cận với quyền sở hữu đất và thừa kế. Pháp luật cũng cấm tuyển dụng lao động với kỳ thị dựa trên cơ sở giới tính. Trong khi đó các tổ chức NGO cho rằng đã có xảy ra tình trạng phân biệt đối xử, nhưng các cáo buộc này khó có thể chứng minh.
Hội Phụ nữ và Ủy ban Quốc gia của chính phủ vì sự Tiến bộ của phụ nữ tiếp tục thúc đẩy quyền của phụ nữ, bao gồm cả bình đẳng về chính trị, kinh tế và pháp lý, và bảo vệ khỏi nạn lạm dụng trong quan hệ vợ chồng. Hội Phụ nữ cũng mở các chương trình hổ trợ tài chính tiêu dùng nhỏ và các chương trình khác để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Kế hoạch Chiến lược quốc gia của chính phủ về Bình đẳng giới 2011-2020 khẳng định rằng bình đẳng thực chất giữa nam và nữ cần được thể hiện qua việc cung cấp cơ hội, sự tham gia và các lợi ích trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đóng góp cho sự phát triển nhanh mà bền vững của đất nước.
Trong một cuộc hội thảo tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng Tám xem xét việc thực hiện 30 năm Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ và thảo luận về các biện pháp khác liên quan đến bình đẳng giới và quyền của phụ nữ, Ủy ban Quốc hội về các vấn đề xã hội báo cáo rằng phụ nữ chiếm 48 phần trăm trong xấp xỉ 1,5 triệu người lao động. Luật pháp yêu cầu trả lương như nhau cho công việc giống nhau, nhưng nhiều phụ nữ phàn nàn về việc nhận được mức lương thấp hơn so với nam giới.
Lựa chọn Trên Cơ sở Giới tính: Theo UNDP, tỷ lệ giới tính quốc gia trung bình nam nữ khi sinh vào năm 2012 là 112.3-100. Tỷ lệ mất cân bằng của các bé trai sơ sinh với các bé gái tiếp tục tăng trong năm, đặc biệt là ở một số khu vực giàu có của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ thừa nhận các vấn đề (giảm tỷ lệ là một mục tiêu được đánh dấu trong Chương trình Quốc gia về Bình đẳng giới) và tiếp tục thực hiện các bước để giải quyết vấn đề này. Bộ Y tế đã nhận được nguồn vốn bổ sung và nguồn lực để giải quyết sự mất cân bằng.
Trẻ Em
Đăng ký khai sinh: Theo luật, chính phủ xem bất cứ ai là công dân Việt Nam nếu có bố hoặc mẹ là công dân Việt Nam, mặc dù người sinh ra bởi cha mẹ không phải là công dân Việt Nam cũng có thể có quốc tịch trong những trường hợp nhất định. Không phải tất cả các ca sinh đẻ nào cũng được đăng ký ngay, theo báo cáo nguyên nhân là do thiếu sự khích lệ hoặc kiến thức trong dân chúng. Giấy khai sinh là cần thiết cho các dịch vụ công như giáo dục và chăm sóc sức khỏe, và một số phụ huynh đặc biệt là phụ huynh tại đồng bào dân tộc thiểu số lựa chọn không đăng ký khai sinh, gây ảnh hưởng đến khả năng đăng kí học tại các trường học và chăm sóc sức khỏe được chính phủ tài trợ.
Giáo dục: Giáo dục bắt buộc, miễn phí, và phổ quát đến năm 14 tuổi. Tuy nhiên, các cán bộ đã luôn luôn không thực hiện yêu cầu, hoặc thi hành bình đằng giữa nam và nữ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà ngân sách chính phủ và gia đình cho giáo dục còn hạn chế và vai trò đóng góp lao động của trẻ nhỏ có giá trị với ngành nông nghiệp.
Lạm dụng trẻ em: Liên Hợp Quốc và Tổng cục Thống kê báo cáo trong năm 2011 rằng 25 phần trăm trẻ em là nạn nhân của lạm dụng, như được chỉ ra bởi mẹ của các em này trong một nghiên cứu vào năm 2006 về bạo lực trong nước. Theo báo cáo của một tờ báo, các Bộ Công an, Bộ Lao động , Bộ Thương binh và Xã hội (MOLISA) báo cáo vào tháng 5 năm 2012 có khoảng 1.000 trẻ em bị lạm dụng tình dục mỗi năm. Các tổ chức phi chính phủ ghi nhận những khó khăn trong việc thu thập dữ liệu chính xác về tỷ lệ lạm dụng tình dục trẻ em và trẻ vị thành niên, trong đó chỉ ra khả năng các vụ lạm dụng được báo cáo thiếu đầy đủ. Chính phủ đã không có thông tin về mức độ của vấn đề hoặc những nỗ lực để chống lại nó.
Cưỡng bức và kết hôn sớm: Tuổi tối thiểu hợp pháp của hôn nhân là 18 đối với nữ giới và 20 với nam giới, và pháp luật hình sự hóa việc sắp đặt hôn nhân hay kết hôn với một người vị thành niên. Hình phạt với việc sắp đặt hôn nhân trước tuổi từ xử phạt hành chính tới tù từ ba tháng đến hai năm. Tỷ lệ hôn nhân dưới 18 tuổi vào khoảng 16 phần trăm ở vùng Tây Bắc và khoảng 11 phần trăm ở Tây Nguyên – ở cả các vùng nghèo và khu vực nông thôn – theo điều tra dân số năm 2009, nhưng không có số liệu mở rộng của chính phủ. Chính quyền địa phương và Hội Phụ nữ chịu trách nhiệm phổ biến nâng cao nhận thức về hậu quả của hôn nhân trước tuổi.
Lạm dụng tình dục trẻ em: Quấy rối tình dục trẻ em dưới 16 tuổi là bất hợp pháp. Pháp luật hình sự hóa tất cả các hành vi mua bán, trao đổi, hoặc kiểm soát trẻ em cũng như tất cả các hành vi liên quan đến mại dâm trẻ em và lao động trẻ em cưỡng bức. Phạt tù từ ba năm đến tù chung thân, và tiền phạt từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng ($237 đến $2,370). Pháp luật cũng quy định hình phạt tù đối với hành vi liên quan đến mại dâm trẻ em, trong đó có chứa chấp mại dâm (12-20 tuổi), môi giới mại dâm (bảy đến 15 năm), và mua dâm trẻ vị thành niên (ba đến 15 năm). Tương tự như vậy, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi đối xử tàn ác, làm nhục, bắt cóc, mua bán, và ép buộc trẻ em vào các hoạt động có hại cho sự phát triển sức khỏe và cung cấp việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Tuổi tối thiểu của quan hệ tình dục đồng thuận là 18. Quan hệ tình dục với người chưa đủ tuổi 18 là bất hợp pháp và có thể dẫn đến tù chung thân hoặc tử hình. Hình phạt đối với quan hệ tình dục với trẻ vị thành niên ở độ tuổi từ 16 và 18, tùy thuộc vào hoàn cảnh, thay đổi từ 5 đến 10 năm tù giam. Chính phủ thực thi pháp luật, và kết án người hiếp dâm với bản án khắc nghiệt. Sản xuất, phân phối, phổ biến, hoặc bán nội dung khiêu dâm trẻ em là bất hợp pháp và có thể bị phạt từ 3 đến 10 năm tù giam.
Các quan chức công khai nêu ra một xu hướng đang tăng trong việc khai thác tình dục trẻ em. Một nghiên cứu năm 2011 của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tiến hành kết hợp với Bộ LĐTB & XH cho thấy trẻ em ở độ tuổi 12 làm mại dâm, với lứa tuổi phổ biến nhất thấy được là 14 đến 15 tuổi. Một số trẻ vị thành niên tham gia vào tệ nạn mại dâm vì lý do kinh tế. Phát hiện này cũng nhấn mạnh số lượng gia tăng của các bé trai ở độ tuổi dưới 16 tham gia vào tệ nạn mại dâm. UNICEF và các tổ chức địa phương nói rằng chính quyền địa phương báo cáo thiếu đầy đủ tính nghiêm trọng thực tế xảy ra của mại dâm trẻ em.
Trẻ em đường phố: Các tổ chức phi chính phủ độc lập ước tính rằng 23,000-25,000 trẻ em sống trên đường phố và đôi khi đã bị lạm dụng hoặc bị sách nhiễu bởi công an.
Bảo trợ Trẻ em vô thừa nhận: Chính phủ phân bổ 1,25 nghìn tỷ đồng (59.200.000 $) cho Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-20 và tập trung vào việc hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi ở 12 tỉnh nghèo nhất.
Bắt cóc Trẻ em Quốc tế: Việt Nam không phải là một thành viên của Công ước La Hay 1980 về các khía cạnh Dân sự của Bắt cóc Trẻ em Quốc tế.
Chống Do Thái
Có một cộng đồng Do Thái nhỏ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, và không có báo cáo về hành vi chống người Do Thái.
Buôn bán người
Xem Báo cáo của Phòng phụ trách buôn bán người tại www.state.gov/j/tip/ .
Người khuyết tật
Hiến pháp quy định về bảo vệ người khuyết tật. Pháp luật cấm phân biệt đối xử, ngược đãi người khuyết tật về thể chất và tinh thần, khuyến khích người khuyết tật lao động, và đòi hỏi sự bình đẳng cho họ về chỗ ở, tiếp cận giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, phương tiện vận chuyển trong địa phương, và đào tạo nghề. Không có quy định tương tự liên quan đến người khuyết tật các giác quan hoặc trí tuệ.
Các dịch vụ cung cấp cho người khuyết tật, mặc dù hạn chế vẫn được cải thiện trong năm. Bộ Giao thông vận tải đã triển khai xây dựng bộ luật về các tiện ích công cộng dành cho người khuyết tật, tiếp tục đào tạo cán bộ cơ quan giao thông vận tải và các sinh viên về việc sử dụng hệ thống này, và phát triển các tài liệu đào tạo cho tài xế xe buýt để hỗ trợ các cá nhân lên và xuống xe buýt. Chính phủ cũng giảm giá vé xe buýt cho 33.000 người khuyết tật tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Luật pháp yêu cầu xây dựng và cải tạo rộng lớn đối các công trình công cộng lớn để cho cả người khuyết tật tiếp cận, nhưng việc thực hiện tiếp diễn không thường xuyên. Các tòa nhà mới và các cơ sở tại các đô thị lớn đã được xây dựng với đường dốc và dễ vào. Trong năm, Bộ Xây dựng duy trì các đơn vị thi hành tại các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Phòng, Ninh Bình nhằm thực hiện bộ luật không gây cản trở và cung cấp các buổi đào tạo về luật xây dựng cho các thanh tra và các công ty kiến trúc tại hơn 22 tỉnh.
Tiếp cận giáo dục cho trẻ em khuyết tật, bao gồm mù, điếc, và bị hạn chế về vận động, vẫn rất bị hạn chế. Không có thông tin về sự tham gia của trẻ em khuyết tật tại các trường tiểu học, trung học, và giáo dục đại học.
Pháp luật quy định ưu đãi cho các công ty tuyển dụng người khuyết tật và phạt những công ty không đáp ứng hạn ngạch tối thiểu dành 2 đến 3 phần trăm các vị trí trong công ty cho người lao động khuyết tật, nhưng chính phủ thực thi các quy định này không đồng đều. Các công ty có một lực lượng lao động bao gồm ít nhất 51% nhân viên là người khuyết tật có thể hội đủ điều kiện cho các khoản vay trợ cấp đặc biệt của chính phủ.
Chính phủ hỗ trợ người khuyết tật bỏ phiếu trong năm 2011 bằng cách đưa thùng phiếu đến nhà của cá nhân không thể đi đến phòng bỏ phiếu. Không có hạn chế của pháp luật về quyền bầu cử cho người khuyết tật, mặc dù nhiều điểm bỏ phiếu người khuyết tật không thể tiếp cận, đặc biệt là người khuyết tật về vận động.
Chính phủ hỗ trợ thành lập tổ chức trợ giúp người khuyết tật và tư vấn cho họ việc phát triển hoặc đánh giá các chương trình quốc gia, chẳng hạn như các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, pháp luật nghề nghiệp và các chính sách giáo dục khác nhau. Ủy ban điều phối quốc gia về người tàn tật và các thành viên từ các bộ tiếp tục làm việc với các tổ chức trong và ngoài nước để cung cấp bảo vệ, hỗ trợ, tiếp cận vật chất, giáo dục và việc làm. Chính phủ điều hành một mạng lưới nhỏ các trung tâm phục hồi chức năng để cung cấp vật lý trị liệu bệnh nhân dài hạn. Một số tỉnh, các cơ quan chính phủ, các trường đại học có chương trình cụ thể cho người khuyết tật.
Các Nhóm Thiểu số Kiều dân/Chủng tộc/dân tộc
Pháp luật cấm phân biệt đối xử chống lại dân tộc thiểu số, nhưng không có thông tin về các biện pháp thực thi của chính phủ. Phân biệt đối xử của xã hội đối với dân tộc thiểu số đã có từ lâu và dai dẳng. Các quan chức địa phương ở một số tỉnh, đặc biệt là ở các vùng cao, hành động trái với luật pháp quốc gia về phân biệt đối xử đối với các nhóm dân tộc và tôn giáo thiểu số. Dù cho sự tăng trưởng kinh tế đáng kể của đất nước, một số cộng đồng dân tộc thiểu số được hưởng lợi rất ít từ điều kiện kinh tế được cải thiện, dù cho thành viên trong nhóm dân tộc thiểu số tạo lên một phần lớn dân số trong khu vực nhất định, bao gồm cả vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và các phần của đồng bằng sông Cửu Long.
Một số thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số tiếp tục di chuyển đến Campuchia và Thái Lan. Mặc dù có báo cáo một số đi du lịch để tìm kiếm cơ hội kinh tế lớn hơn hoặc tìm đường tắt để định cư ở các nước khác, những người khác rời vì điều kiện chính trị địa phương và bị quấy rối, bao gồm quấy rối bắt nguồn từ niềm tin tôn giáo. Chính phủ gia tăng các biện pháp an ninh ở miền Trung và Tây Bắc của Tây Nguyên vì lo ngại các tuyên bố hoạt động ly khai dân tộc thiểu số. Chính phủ cũng tiếp tục theo dõi các nhóm thiểu số vùng cao rất chặt chẽ, đặc biệt là một số nhóm dân tộc ở miền Trung và Tây Bắc Tây Nguyên, nơi tiếp tục đòi hỏi thực hành tín ngưỡng thiểu số theo hướng ly khai. Tiếp tục có báo cáo rằng các cá nhân dân tộc thiểu số gọi điện thoại cho các thành viên của cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ngoài là mục tiêu đặc biệt chú ý của cảnh sát. Trong năm, cơ quan chức năng bắt giữ và/hoặc kết án một số cá nhân bị cáo buộc kết nối với các tổ chức ở nước ngoài mà chính phủ cho rằng đi theo con đường ly khai và kết án tù dài hạn họ. Ngoài ra, sự hiện diện an ninh gia tăng đã được báo cáo xung quanh những dịp nhạy cảm và các ngày lễ trong khu vực. Tiếp tục có báo cáo rằng cảnh sát Việt Nam hoạt động trên cả hai phía biên giới nhằm đem các thành viên của dân tộc thiểu số tìm cách vào Campuchia trở lại và đôi khi đánh đập và giam giữ họ.
Trong tháng Năm giới chức đã bắt giữ bốn nhà hoạt động người Khmer Krom ở Sóc Trăng vì “chạy trốn ra nước ngoài để hoạt động chống lại chính phủ Việt Nam” và “tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”, cũng như vì mối lien hệ của họ với Liên đoàn người Khmer Krom Kampuchea. Vào tháng Chín một tòa án kết án một trong bốn người này từ hai và sáu năm tù giam.
Chính phủ tiếp tục cố gắng để giải quyết nguyên nhân của sự bất mãn của dân tộc thiểu số thông qua các chương trình đặc biệt cải thiện cơ sở giáo dục và y tế và mở rộng tiếp cận đường xá và điện khí hóa nông thôn và làng xã. Chính phủ cũng tiếp tục giao đất cho các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thông qua một chương trình đặc biệt, nhưng có tiếp tục khiếu nại rằng việc thực hiện không đồng đều.
Pháp luật quy định về phổ cập giáo dục cho trẻ em không phân biệt tôn giáo hay sắc tộc, và các thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số không phải trả học phí thường lệ. Chính phủ điều hành các trường học đặc biệt dành cho trẻ em dân tộc thiểu số, và đã có 292 trường nội trú tại 50 tỉnh, chủ yếu là ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có cấp 2 và cấp 3, cùng với các chương trình học đặc biệt ở chính quy và dự bị cũng như học bổng và tuyển sinh ưu đãi ở cấp đại học. Chính phủ cũng đã làm việc với các quan chức địa phương để phát triển chương trình giảng dạy ngôn ngữ địa phương, nhưng dường như việc thực hiện chương trình này toàn diện hơn ở Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, và chỉ thực hiện trong khu vực giới hạn của Tây Tây Bắc. Trong năm cũng có một vài trường kỹ thuật và dạy nghề được chính phủ trợ cấp cho người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, có một số trường hợp bị phân biệt đối xử trong giáo dục đối với dân tộc thiểu số.
Chính phủ phát sóng chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số ở một số vùng. Chính phủ cũng chỉ đạo dân tộc đa số (dân tộc Kinh) các quan chức để học ngôn ngữ của địa phương mà họ làm việc. Chính quyền địa phương tiếp tục sáng kiến để tăng việc làm, giảm khoảng cách thu nhập giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh, và làm cho các quan chức nhạy bén và tiếp thu nền văn hóa và truyền thống dân tộc thiểu số.
Chính phủ cấp ưu đãi cho các công ty trong nước và nước ngoài đầu tư vào vùng cao dân cư chủ yếu là người dân tộc thiểu số. Chính phủ cũng duy trì các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nhắm vào người nghèo, khu vực chủ yếu là dân tộc thiểu số và thiết lập các chương trình khuyến nông cho các vùng nông thôn xa xôi.
Hội đồng Dân tộc thiểu số của Quốc hội, cùng với ủy ban quản lý dân tộc thiểu số của tỉnh, tiếp tục hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và giải quyết một số vấn đề liên quan đến xóa đói giảm nghèo và tăng tỷ lệ biết chữ trong năm.
Bất công xã hội, Phân biệt đối xử, và Hành vi bạo lực Căn cứ vào xu hướng tình dục và Giới tính
Luật pháp không giải quyết phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hay giới tính. Không có báo cáo chính thức phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hay giới tính, nhưng phân biệt đối xử trong xã hội và sự kỳ thị vẫn còn phổ biến.
Không có pháp luật hình sự hóa việc đồng thuận quan hệ tình dục đồng tính, mặc dù theo nghị định các cá nhân có thể không thay đổi giới tính.
Trong tháng Năm, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, một tổ chức phi lợi nhuận làm việc cho quyền của các nhóm thiểu số, phát hành số liệu thống kê báo cáo khoảng 1,65 triệu cá nhân trong nước được xác định là LGBT (đồng tính luyến ái nữ-nữ hay nam-nam, hai hệ, chuyển giới). Vào tháng Tám khoảng 200 nhà hoạt động đã tham gia “Việt Pride 2013,” một cuộc diễu hành niềm tự hào đồng tính ở Hà Nội.
Trong tháng mười một Quốc hội đã thông qua sửa đổi luật pháp qua đó sẽ đảm bảo cho các cặp vợ chồng đồng tính sự bảo vệ tài sản, hợp đồng, và quyền làm cha mẹ đối với con cái sau khi ly dị cho các cặp vợ chồng khác giới.
Bạo lực xã hội hoặc Phân biệt đối xử khác
Luật pháp quy định rằng nhà tuyển dụng không được thôi việc các cá nhân bị HIV/AIDS và các bác sĩ không thể từ chối điều trị người nhiễm HIV/AIDS. Không có bằng chứng chính thức phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS và không có báo cáo về việc từ chối điều trị y tế.
Phân biệt đối xử của xã hội, tuy nhiên, đã tồn tại. Các cá nhân dương tính với HIV được báo cáo bị xã hội kỳ thị, mất việc làm, và bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc hoặc trong việc tìm kiếm nhà ở, mặc dù số lượng các báo cáo này giảm trong năm. Với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nước ngoài, các cơ quan trung ương và tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp, mặc dù không nhất quán, điều trị, hỗ trợ, và cung cấp nơi ở cho người bị HIV/AIDS và do đó làm giảm sự kỳ thị xã hội và phân biệt đối xử. Tổ chức từ thiện tôn giáo đôi khi có thể cung cấp các dịch vụ chăm sóc tại nhà và phòng chống HIV cho người có hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chính phủ báo cáo trong năm 2012 có khoảng 5.100 trẻ em ở tuổi đi học bị HIV/AIDS. Trong một số trường hợp, áp lực từ phụ huynh cấm trẻ em dương tính với HIV/AIDS hoặc trẻ mồ côi đến trường học.
Phần 7. Quyền Công nhân
a. Tự do Hiệp hội và quyền được Thương lượng Tập thể
Pháp luật không cho phép công nhân tổ chức và tham gia công đoàn độc lập theo sự lựa chọn. Trong khi công nhân có thể chọn để tham gia công đoàn và ở cấp nào (địa phương, tỉnh , hoặc quốc gia) họ muốn tham gia, mỗi công đoàn phải đăng ký với tổ chức công đoàn lao động duy nhất của đất nước, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (Tổng LĐLĐ), để được công nhận về mặt pháp lý. Tổng LĐLĐ, một tổ chức công đoàn được điều khiển bởi Đảng Cộng sản, phê duyệt và quản lý một loạt các liên đoàn lao động tại các công ty con được tổ chức theo vùng và ngành công nghiệp.
Vào tháng Một, Đạo Luật Công đoàn sửa đổi bắt đầu có hiệu lực. Trong số các quy định khác, đạo luật đã loại bỏ yêu cầu rằng các doanh nghiệp với hơn 20 công nhân phải thành lập một tổ chức công đoàn trong vòng sáu tháng. Trong khi đạo luật này bắt công đoàn doanh nghiệp chịu trách nhiệm “phổ biến thông tin để thuyết phục và hướng dẫn người lao động thành lập và/hoặc tham gia công đoàn,” còn Tổng LĐLĐ có thể bây giờ chỉ đại diện cho người lao động trong các doanh nghiệp không có công đoàn nơi mà các công nhân yêu cầu phải có công đoàn. Cả đạo luật và các luật lệ liên quan đều không xác định tiến trình để người lao động yêu cầu người đại diện cho họ, hoặc số lượng tối thiểu của người lao động cần thiết để thực hiện điều đó.
Theo đạo luật, Tổng LĐLĐ cũng có trách nhiệm giáo dục công nhân về quyền và nghĩa vụ của mình, đại diện cho người lao động (gọi là “lao động tập thể”) trong thương lượng tập thể và tranh chấp với lao động cá nhân; tổ chức và lãnh đạo các cuộc đình công hợp pháp, và làm việc với các cơ quan nhà nước về quan hệ lao động, sức khỏe và an toàn nghề nghiệp, và các vấn đề khác. Tổng LĐLĐ không còn cần thiết tập trung vào việc thiết lập “công đoàn cơ sở.” Phí công đoàn là bắt buộc theo luật đối với các thành viên công đoàn và người sử dụng lao động trong và ngoài nước. Trong nỗ lực để nâng cao trách nhiệm với phí công đoàn, điều luật nêu rõ việc sử dụng hợp lý phí công đoàn bắt buộc đối với các thành viên công đoàn và người sử dụng lao trong và ngoài nước. Điều luật cũng loại bỏ quy định tên Tổng LĐLĐ là thực thể duy nhất để quản lý tài chính của toàn bộ hệ thống công đoàn.
Pháp luật quy định các công đoàn trực thuộc Tổng LĐLĐ – có quyền thương lượng tập thể đại diện cho người lao động. Tranh chấp lao động tập thể về quyền phải thông qua Hội đồng hoà giải, và nếu hội đồng không thể giải quyết vấn đề này, sẽ đưa lên chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong tháng Năm, Bộ luật Lao động sửa đổi có hiệu lực. Bộ luật cho phép tổ chức công đoàn và các tổ chức sử dụng lao động tạo điều kiện và hỗ trợ thương lượng tập thể và yêu cầu các công ty thiết lập một cơ chế để cho phép quản lý và lực lượng lao động để trao đổi thông tin và tham khảo ý kiến về các chủ đề có ảnh hưởng đến điều kiện làm việc. Bộ luật này cũng bảo vệ việc “cho thuê lại lao động” là một mô hình mới về việc làm, cộng thêm việc bảo vệ công nhân bán thời gian và nội địa.
Pháp luật cho phép đình công trong các trường hợp quy định nhất định và quy định một quá trình hòa giải và phân xử rộng lớn và cồng kềnh trước khi một cuộc đình công hợp pháp có thể xảy ra. Pháp luật cấm đình công trong các doanh nghiệp phục vụ công cộng hoặc những nơi mà chính phủ cho là thiết yếu đối với nền kinh tế và quốc phòng đất nước, định nghĩa đình công trong các doanh nghiệp sản xuất điện, bưu chính viễn thông; vận tải biển và vận tải hàng không, hàng hải và quản lý; công trình công cộng; và dầu khí. Pháp luật định nghĩa “dịch vụ thiết yếu” rộng hơn tiêu chuẩn quốc tế. Pháp luật cũng cho phép Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ một cuộc đình công được coi là gây bất lợi cho nền kinh tế quốc gia, an toàn công cộng.
Các cuộc đình công mà không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể hoặc không tuân thủ các quy trình vạch ra bởi pháp luật là bất hợp pháp. Trước khi người lao động có thể tổ chức một cuộc đình công, họ phải đưa yêu cầu của mình qua một quá trình liên quan đến Hội đồng hoà giải (hoặc hoà giải viên lao động cấp huyện nơi không có sự xuất hiện của công đoàn). Nếu hai bên không thể đạt được hòa giải, công đoàn phải gửi yêu cầu đến một Hội đồng phân xử cấp tỉnh. Công đoàn (hoặc đại diện của người lao động tại nơi không có công đoàn hiện diện) có quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài cấp tỉnh đến tòa án nhân dân cấp tỉnh cùng với việc đình công. Pháp luật cũng quy định rằng những người đình công không được trả lương trong khi họ không làm việc. Luật pháp nghiêm cấm trả thù người đình công. Theo luật, các cá nhân tham gia cuộc đình công bị tuyên bố bất hợp pháp bởi Toà án nhân dân và phát hiện đã gây thiệt hại cho người thuê lao động phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các công nhân có thể đưa trường hợp của họ trực tiếp lên hệ thống tòa án nhân dân, nhưng trong nhiều trường hợp họ có thể làm như vậy chỉ sau khi đã cố gắng hoà giải và thất bại.
Các lãnh đạo Tổng Liên đoàn ảnh hưởng các quyết định quan trọng bằng việc soạn thảo, sửa đổi, hoặc cho ý kiến về pháp luật lao động, phát triển mạng lưới an sinh xã hội và thiết lập tiêu chuẩn sức khỏe, an toàn và mức lương tối thiểu. Các nhà hoạt động lao động và đại diện (không phải của Tổng LĐLĐ) của các tổ chức công nhân phải đối mặt với sự kỳ thị.
Tổng LĐLĐ báo cáo rằng có 178 cuộc đình công từ tháng giêng đến tháng năm. Ước tính có khoảng 71 phần trăm của các cuộc đình công xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (chủ yếu là các công ty Hàn Quốc và Đài Loan) và nguyên nhân là do những bất đồng về mức lương. Không có cuộc đình công nào tuân theo ủy quyền hoà giải và quá trình phân xử, và do đó chính quyền coi các cuộc đình công là đình công “tự phát” bất hợp pháp. Chính phủ đã không có bất kỳ hành động chống lại các cuộc đình công và thi thoảng làm thỏa thuận trung gian có lợi cho người lao động. Trong một số trường hợp, chính phủ phạt nặng nề những nhà tuyển dụng, đặc biệt là với các công ty nước ngoài tham gia trong các hoạt động bất hợp pháp dẫn đến đình công.
Đã có một số báo cáo nói rằng các nhà tuyển dụng trả thù người tham gia đình công bằng cách hạn chế triển vọng việc làm trong tương lai.
Cũng có những báo cáo đáng tin cậy mà nhà tuyển dụng có xu hướng sử dụng các hợp đồng ngắn hạn hoặc tập sự để tránh một số lợi ích hợp pháp của người lao động, chẳng hạn như bảo hiểm thất nghiệp, hoặc ngăn chặn công nhân tham gia công đoàn. Nhiều nhà tuyển dụng không để cho các nhà lãnh đạo công đoàn gặp gỡ người lao động trừ khi cấp quản lý có mặt.
b. Cấm lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc.
Luật pháp nghiêm cấm lao động cưỡng bức và bắt buộc, ngoại trừ theo quy định của xử phạt hành chính hoặc hình sự. Tuy nhiên, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tiếp tục báo cáo có sự xuất hiện của lao động cưỡng bức đối với người lớn.
Các công ty tuyển dụng lao động, hầu hết trong số đó liên kết với doanh nghiệp nhà nước, và các môi giới trung gian không có giấy phép, thường không bị trừng phạt vì các công ty này quy kết người lao động tìm kiếm tiền công lao động quốc tế cao hơn luật pháp cho phép. Những công nhân này bị kéo vào nợ nần và vì thế dễ bị cưỡng bức lao động, bao gồm cả gán nợ.
Tù nhân bị kết án bởi tòa án thường xuyên phải làm việc mà lại có ít hoặc không có lương.
Cơ quan chức năng thường xuyên yêu cầu các cá nhân, không bị kết tội nhưng bị bắt giữ theo nghị định hành chính tại các trung tâm cải tạo và các trung tâm giam giữ gái mại dâm và sử dụng ma túy, làm việc mà lại có ít hoặc không trả tiền theo quy định hành chính và luật pháp. Theo báo cáo, họ sản xuất thực phẩm và các hàng hóa khác được sử dụng trực tiếp trong các nhà tù hoặc được bán trên thị trường địa phương, để trả tiền cho các đồ dùng cá nhân. Tiếp tục có báo cáo đáng tin cậy rằng công ty tư nhân thuê lao động ngay trong các trại cai nghiện.
Năm 2011 và 2012, một tổ chức nhân quyền quốc tế báo cáo rằng chính quyền buộc cá nhân trong các trại giam cho người nghiện ma túy tham gia vào các công việc không được trả lương hoặc trả lương thấp như là một phần của việc điều trị. Đáp lại, các quan chức Bộ LĐTB & XH khẳng định rằng “lao động trị liệu” là một phần của việc điều trị cho các cá nhân trong các trung tâm này nhưng khẳng định rằng nó không bắt buộc đối với tất cả các cá nhân và đều được trả công.
Xem Báo cáo của Phòng phụ trách Buôn bán người tại www.state.gov/j/tip/.
c. Cấm lao động trẻ em và tuổi tối thiểu lao động
Pháp luật đặt ra độ tuổi lao động tối thiểu ở tuổi 18, nhưng các doanh nghiệp có thể thuê trẻ em ở độ tuổi từ 15 và 18, nếu các công ty có được sự cho phép của cha mẹ và Bộ LĐTBXH. Các doanh nghiệp thuê trẻ em từ 15 đến 18 phải cung cấp các yếu tố đặc biệt liên quan đến giờ làm việc, nghỉ hàng năm, và môi trường làm việc. Những trẻ em này có thể làm việc tối đa là tám giờ mỗi ngày và 40 giờ mỗi tuần và phải được chăm sóc y tế đặc biệt.
Pháp luật cho phép trẻ em đăng ký tại các trung tâm đào tạo thương mại, một hình thức đào tạo nghề, từ 14 tuổi mà không có sự đồng ý của cha mẹ. Theo luật, chủ nhân phải đảm bảo rằng công nhân dưới 18 tuổi không thực hiện công việc nguy hiểm hoặc việc làm có hại cho sự phát triển về thể chất hoặc tinh thần. Luật pháp cấm trẻ em làm công việc đòi hỏi có tư thế nén ép, tiếp xúc trực tiếp với hóa chất độc hại, tiếp xúc với chất phóng xạ, làm việc với nhiều loại hình lò nung hoặc kim loại nóng, xe cơ giới, vận hành máy nghiền sàng đá, máy điều hành hồ vải và các loại sợi bông, và các điều kiện khác.
Bộ LĐTB & XH chịu trách nhiệm thực thi pháp luật và chính sách lao động trẻ em. Các quan chức chính phủ có thể phạt và khởi tố trong trường hợp vi phạm hình sự sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động trẻ em. Nói chung, chính phủ cam kết đủ nguồn lực để thực thi hiệu quả pháp luật nhằm đảm bảo cho sự an toàn của trẻ em, đặc biệt là cho trẻ em làm việc trong hầm mỏ và phục dịch trong các gia đình. Bộ LĐTB & XH cho rằng hơn 25.000 trẻ em làm việc trong điều kiện độc hại trên cả nước; quan sát quốc tế cho rằng con số thực tế cao hơn.
Trong năm, có một số báo cáo rằng chính phủ phát hiện một số trường hợp trẻ em bị buộc phải làm công việc nguy hiểm, đã loại bỏ lao động trẻ em những nơi làm việc, và truy tố/phạt người sử dụng lao động. Theo đại diện chính phủ, các doanh nghiệp thường tuyên bố họ cung cấp việc “đào tạo nghề”, nhưng các thanh tra lao động của chính phủ – đã không được công bố – tìm thấy trẻ em làm việc 9 đến 12 giờ mỗi ngày với mức lương thấp và trong điều kiện làm việc nguy hiểm (bao gồm ánh sáng kém, môi trường bụi bẩn, và điều hành các máy móc hạng nặng) tại các nhà máy may mặc tư nhân nhỏ tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2012, năm gần nhất có dữ liệu, chính phủ ước tính rằng 1.450 trẻ em đang làm việc trong môi trường nguy hiểm tại thành phố Hồ Chí Minh, chẳng hạn như nhà máy may mặc, và gần lò gạch (công việc nặng nhọc quá mức, tiếp xúc với lửa).
Như một phần trong 5 năm đầu của Chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em, chính phủ tiếp tục các chương trình để loại bỏ sự dai dẳng của lao động trẻ em, đặc biệt tập trung vào các gia đình nghèo và trẻ mồ côi. Một dự án hợp tác với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) vẫn được tiếp tục để loại bỏ các hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em, tuy nhiên, lao động trẻ em vẫn còn là một vấn đề, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà hai phần ba dân số cư trú.
Trong khu vực nông thôn chủ yếu là trẻ em làm việc trong các trang trại gia đình, trong các hoạt động nông nghiệp khác và việc nhà, hoặc trong các hầm mỏ. Cũng có báo cáo về trẻ em làm việc trong các lò gạch. Một số cha mẹ không cho phép con đi học trong mùa thu hoạch và trồng trọt. Di cư từ nông thôn ra thành thị làm trầm trọng thêm các vấn đề lao động trẻ em vì người di cư trái phép không thể đăng ký hộ gia đình ở thành thị. Do đó, con cái của họ không thể học tại các trường công lập. Các quan chức thường phân công công việc cho người chưa thành niên trong các trung tâm nuôi dưỡng và giáo dục, có chức năng tương tự như các trường giáo dưỡng hoặc các trung tâm giam giữ vị thành niên, vì “mục đích giáo dục.”
Trong khu vực đô thị trẻ em làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ do gia đình sở hữu, bao gồm nhà máy may mặc tư nhân nhỏ, hoặc đánh giày, bán vật phẩm trên đường phố, chẳng hạn như bán vé số và bán báo. Cũng có báo cáo về lao động trẻ em ở nhà máy may mặc.
d . Điều kiện chấp nhận Công việc
Bắt đầu từ ngày 1 tháng 7, mức lương tối thiểu hàng tháng cho công chức, viên chức nhà nước đã tăng từ 1,05 triệu đồng ($50) lên 1.150 triệu đồng ($ 54,40). Chính phủ xác định chuẩn nghèo cho giai đoạn 2011-15 là 400.000 đồng (18,90$) mỗi tháng cho các hộ gia đình nông thôn và 500.000 đồng (23,70$) cho các hộ gia đình thành thị.
Pháp luật đặt ra số giờ làm việc bình thường là 8 tiếng mỗi ngày, bắt buộc có 24 tiếng nghỉ mỗi tuần. Làm thêm giờ được yêu cầu trả tiền thêm giờ bằng 1,5 lần mức lương bình thường, bằng hai lần mức lương bình thường khi làm việc trong 24 giờ phép, và ba lần mức lương bình thường cho các ngày nghỉ phép, nghỉ lễ và ngày nghỉ được trả lương. Bộ luật lao động mới giới hạn làm thêm giờ bằng 50 phần trăm giờ làm việc bình thường mỗi ngày, 30 giờ mỗi tháng, và 200 giờ trong một năm, nhưng đưa ra ngoại lệ trong trường hợp đặc biệt, với tối đa là 300 giờ làm thêm trong năm, tùy thuộc vào quy định của chính phủ sau khi tham khảo ý kiến Tổng Liên đoàn và đại diện bên sử dụng lao động. Luật cũng quy định nghỉ lễ hàng năm phải được trả đủ lương trong cả khu vực công và tư nhân.
Chính phủ thiết lập tuần làm việc cho nhân viên chính phủ và nhân viên của các công ty trong khu vực nhà nước là 40 giờ và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức nước ngoài và quốc tế sử dụng lao động địa phương để giảm số giờ trong tuần làm việc xuống còn 40 giờ, nhưng việc tuân thủ là không bắt buộc.
Theo quy định pháp luật, doanh nghiệp không được sa thải một nhân viên nữ đang đính hôn hoặc đang mang thai, nghỉ thai sản, hoặc chăm sóc cho trẻ em dưới một tuổi, trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Lao động nữ có thai ít nhất bảy tháng hoặc đang chăm sóc cho trẻ em dưới một tuổi có thể không bắt buộc phải làm thêm giờ vào ban đêm, hoặc làm tại các địa điểm xa nhà.
Vẫn chưa rõ rằng về mức độ nghiêm khắc mà chính phủ thực thi các quy định về tiền lương, giờ, và lợi ích hoặc các trường hợp ngoại lệ cho lao động nữ nhất định. Bộ LĐTB & XH phối hợp với Uỷ ban nhân dân địa phương và công đoàn lao động, chịu trách nhiệm thực thi pháp luật, nhưng việc thực thi là bất thường vì nhiều lý do, bao gồm cả kinh phí thấp và thiếu nhân viên thực thi đã được đào tạo. Tổng LĐLĐ khẳng định rằng chính quyền đã không thường xuyên truy tố các vi phạm. Bộ LĐTB & XH thừa nhận những thiếu sót trong hệ thống thanh tra lao động của mình và nhấn mạnh rằng số lượng lao động thanh tra toàn quốc là không đủ. Theo các quan chức Bộ LĐTBXH, đã có khoảng 150 các thanh tra lao động toàn thời gian và 350 thanh tra lao động bán thời gian. Tổng LĐLĐ tuyên bố, và Bộ LĐTBXH thừa nhận, tiền phạt thấp đối với các công ty vi phạm lao động là không hiệu quả với vai trò là một biện pháp chống lại hành vi vi phạm. Trong năm 2012 chính phủ mở rộng các lĩnh vực thanh tra, với các chủ đề khác nhau, từ quy định lao động và người khuyết tật đến bảo hiểm xã hội và các công ty tuyển dụng xuất khẩu.
Tiếp tục có các báo cáo đáng tin cậy rằng các nhà máy làm thêm giờ vượt quá ngưỡng quy định của pháp luật và không đáp ứng yêu cầu về số ngày nghỉ theo luật định. Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế trong tháng tư lưu ý rằng 122 trong số 132 nhà máy may mặc không phù hợp với giới hạn giờ làm thêm trong pháp luật.
Người lao động di cư, bao gồm cả người di cư kinh tế trong nước, tiếp tục là các công nhân dễ bị tổn thương nhất và cũng thường xuyên trong điều kiện làm việc nguy hiểm. Các công nhân khác thường xuyên làm việc trong lĩnh vực kinh tế không chính thức bao gồm các thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số.
Luật pháp yêu cầu Chính phủ ban hành quy tắc và quy định về an toàn lao động . Chấn thương tại nơi làm việc do điều kiện nghèo nàn về an toàn sức khỏe và lao dộng và đào tạo nhân viên đầy đủ vẫn là một vấn đề. Lĩnh vực khai thác mỏ và xây dựng có số lượng tai nạn lao động lớn nhất. Trong năm 2012, năm gần nhất có dữ liệu, đã có 6.777 vụ tai nạn lao động, tăng 14,9 phần trăm từ năm 2011.
*Xem bản tiếng Anh
March 23, 2014
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Báo Cáo Nhân Quyền 2013 về Việt Nam
by Defend the Defenders • Bui Thi Minh Hang, Cu Huy Ha Vu, Dinh Dang Dinh, Dinh Nguyen Kha, Le Anh Hung, Le Cong Dinh, Le Quoc Quan, Le Quoc Quyet, Le Tri Tue, Nguyen Bac Truyen, Nguyen Dan Que, Nguyen Hoang Vi, Nguyen Ngoc Nhu Quynh (Me Nam), Nguyen Phuong Uyen, Nguyen Thao Chi, Nguyen Tien Nam (Binh Nhi), Nguyen Tuong Thuy, Nguyen Van Dai, Nguyen Van Hai (Dieu Cay), Pham Ba Hai (Trang Thien Long), Pham Hong Son, Pham Van Hai, Ta Phong Tan
Nhóm dịch thuật Defend The Defenders: Vũ Quốc Ngữ, Nguyễn Thanh Anh, Nguyễn Thanh Thủy và Trang Thiên Long
Văn Phòng Đặc Trách Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động:
Báo Cáo Quốc Gia về Tình Hình Nhân Quyền 2013 – VIỆT NAM
Ngày 27 tháng 2 năm 2014
TÓM TẮT TỔNG QUAN
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một nhà nước độc tài độc đảng. Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) được dẫn đầu bởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Cuộc bầu cử quốc hội gần đây nhất được tổ chức vào năm 2011 không hề có tự do lẫn công bằng. Nhà cầm quyền duy trì việc kiểm soát hoàn toàn lực lượng an ninh. Lực lượng an ninh lại thực hiện những vi phạm nhân quyền.
Các vấn đề nhân quyền nghiêm trọng nhất tại quốc gia này vẫn là những cấm đoán hà khắc của chính quyền đối với quyền tham gia chính trị của công dân, đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ của người dân; gia tăng các biện pháp hạn chế quyền tự do dân sự; và vấn nạn tham nhũng trong hệ thống tư pháp và công an.
Các vi phạm nhân quyền chủ yếu vẫn là sự ngược đãi của công an với nghi phạm trong quá trình bắt và tạm giam, bao gồm việc dùng bạo lực dẫn đến tử vong, điều kiện giam giữ hà khắc; bắt bớ tuỳ tiện những hoạt động chính trị cũng như không cho người dân quyền có được một phiên toà công bằng và nhanh chóng. Ảnh hưởng chính trị, nạn tham nhũng đặc thù và sự kém hiệu quả tiếp tục bóp méo hệ thống tư pháp một cách nghiêm trọng. Chính quyền hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và đàn áp giới bất đồng chính kiến; tăng cường hạn chế tự do internet; tiếp tục có những báo cáo liên quan đến các cuộc tấn công các website chứa nội dung phê bình; duy trì việc theo dõi giới bất đồng chính kiến cũng như hạn chế quyền tự do riêng tư, quyền tự do lập hội cũng như đi lại. Mặc dù chính quyền mới cấp phép cho hơn 100 điểm thờ phượng, nhưng vẫn còn hàng trăm nơi khác không được cấp phép, và người dân phải cố thực thi quyền tự do tín ngưỡng của mình; trong khi vẫn tiếp tục bị sách nhiễu, việc giải thích và thực thi luật với quyền này lại khác nhau và không có sự đồng nhất trong bảo vệ pháp lý, đặc biệt mức độ tuỳ thuộc theo cấp tỉnh và làng xã. Nạn tham nhũng của giới công an vẫn còn dai dẳng. Chính quyền duy trì sự cấm đoán đối với các tổ chức nhân quyền độc lập. Bạo lực, đối xử phân biệt với phụ nữ, nạn buôn người bao gồm cả nam giới, phụ nữ, trẻ em, cũng như việc lựa chọn giới tính và khai thác tình dục trẻ em vẫn còn diễn ra. Mặc dù sự phân biệt đối xử trong xã hội đối với sự khác biệt dân tộc, khuynh hướng tính dục, giới tính và tình trạng phơi nhiễm HIV/AIDS vẫn tồn tại, tuy vậy đã có một cuộc tranh luận công khai về đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, và chuyển giới (LGBT), và những người thuộc giới LGBT nhìn chung đã được chấp nhận. Chính phủ duy trì việc hạn chế quyền của lực lượng công nhân được thành lập và tham gia các công đoàn độc lập cũng như không thực hiện các điều kiện làm việc an toàn và có lợi cho sức khoẻ một cách đầy đủ. Vẫn còn lao động trẻ em.
Chính phủ đã không có những bước nhất quán trong việc truy tố và trừng phạt các quan chức lạm dụng quyền lực, và đôi khi miễn trừng phạt đối với những công an vi phạm.
Phần 1. Tôn Trọng Quyền Toàn Vẹn Con Người, bao gồm Quyền không bị:
a. Tước đi Mạng Sống Một Cách Tuỳ Tiện và Bất Hợp Pháp:
Mặc dù không phải tất cả trường hợp đều có những báo cáo tường tận, nhưng chúng đã cho thấy chính quyền hoặc các đặc vụ của họ đã giết người tuỳ tiện và bất hợp pháp, bao gồm tin tức trong năm nói về chín trường hợp đã chết trong khi bị giam giữ cũng như việc lạm dụng vũ lực dẫn đến tử vong. Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đang xem xét các cáo buộc về việc lạm dụng quyền lực của lực lượng an ninh.
Vào ngày 29 tháng 1, sau hai tháng giam cầm với cáo buộc trộm cắp, Nguyễn Quốc Tuấn đã tử vong khi đang bị cảnh sát tỉnh Gia Lai giam giữ. Gia đình của Tuấn phản đối kết luận cái chết do nguyên nhân tự nhiên của cơ quan chức năng. Họ chỉ ra các vết bầm, vết thương nghiêm trọng trên thân thể của Tuấn. Không có thêm thông tin nào được công bố về cái chết của Tuấn hoặc yêu cầu có một cuộc điều tra của gia đình.
Theo các báo cáo chính thức, Trần Văn Hiền tử vong vì chấn thương sọ não vào ngày 11 tháng 4, khi đang bị bắt giữ tại công an quận Bình Tân, Tp.HCM, sau khi ông đe doạ sẽ ghi hình công an giao thông trong lúc bị họ tịch thu xe máy. Nhân viên công vụ Lê Thanh Bằng và Lê Văn Tòng đã thừa nhận hành vi đánh ông Hiền. Trường hợp này vẫn còn đang được an ninh điều tra kể từ tháng 11.
b. Mất Tích:
Một báo cáo mới về trường hợp mất tích vì động cơ chính trị: Vào ngày 21 tháng 8, công an bắt giữ blogger Nguyễn Văn Dũng, còn được gọi là Aduku Adk, khi đang trên đường tại trung tâm Hà Nội sau khi anh tham dự một cuộc họp của “Mạng lưới Blogger Việt Nam”. Ngay sau khi bị bắt, công an địa phương đã khám xét nhà anh. Cho đến cuối năm, vẫn không rõ anh hiện ở đâu và chính quyền vẫn chưa có hồ sơ cáo trạng chính thức.
Thêm trường hợp không biết tung tích là hoà thượng Thích Trí Khai, không có trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bị chính quyền bắt giữ vào năm 2008 và Lê Trí Tuệ, một sáng lập viên của Công đoàn Độc lập Việt Nam bị bắt giữ vào năm 2007.
Vào ngày 28 tháng 1, Uỷ ban LHQ về Những Trường Hợp Bị Bắt hoặc Đưa Đi Mất Tích báo cáo rằng họ đã gửi lại truy vấn đối với một trường hợp nổi bật có trong hồ sơ nhưng vẫn không được chính phủ Việt Nam hồi đáp.
c. Tra Tấn hoặc Các Đối Xử hay Trừng Phạt Tàn bạo, Dã Man, Vô Nhân Đạo
Luật pháp nghiêm cấm việc xâm hại thân thể, tuy vậy giới công an thường xuyên ngược đãi nghi phạm trong quá trình bắt giữ hoặc tạm giam, cũng như các nhân viên trung tâm cai nghiện lạm dụng học viên. Lực lượng an ninh cũng đã tấn công phóng viên (xem phần 2.a). Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước chống tra tấn vào ngày 7 tháng 11.
Trong năm qua có các báo cáo về tình trạng lạm dụng y khoa. Trường hợp của blogger Lê Anh Hùng bị an ninh bắt vào trại tâm thần ngày 24 tháng 1, mặc dù không theo ý muốn của ông. Ông được thả vào ngày 5 tháng 2. Lê Anh Hùng thường xuyên tố cáo tình trạng tham nhũng của các quan chức cấp cao trên blog của mình.
Vào tháng 5, blogger Nguyễn Hoàng Vi, em gái Nguyễn Thảo Chi và mẹ của cô Nguyễn Thị Cúc cáo buộc công an đã sách nhiễu và đánh đập khi họ cố lấy lại chiếc điện thoại di động và máy vi tính mà công an đã tịch thu của Nguyễn Hoàng Vi ngày hôm trước.
Dân oan tại Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng và một số tỉnh miền Tây tiếp tục gửi báo cáo những trường hợp bị chính quyền sách nhiễu và đe doạ tính mạng. Điển hình là vào ngày 17 tháng 9, những người dân oan biểu tình cho biết công an và chính quyền địa phường đã đẩy họ xuống đường và làm họ bị thương ngay trước toà nhà văn phòng chính phủ. (Hầu hết các xô xát giữa chính quyền địa phương và các nhóm thiểu số đều liên quan đến tranh chấp đất đai, tiền bạc hoặc nội bộ)
Vào tháng 5, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hoà tuyên bố Thiếu tá Nguyễn Minh Quyền, Thiếu tá Nguyễn Tấn Quang, Thượng uý Phạm Ngọc Mẫn và Thiếu uý Nguyễn Thân Thảo và Trung uý Đỗ Như Huy phạm tội sử dụng nhục hình trong quá trình thẩm vấn Ngô Thanh Kiều, bị bắt giữ vì tội trộm cắp vào tháng 5-2012. Ngô đã chết vì chấn thương. Viện kiểm sát đề nghị xử lý kỷ luật 10 nhân viên công an của thành phố Tuy Hoà, bao gồm cả Thượng tá Lê Đức Hoà. Vụ án vẫn đang chờ được xét xử.
Điều Kiện Nhà Tù và Nơi Giam Giữ
Điều kiện nhà tù tuy khắc khổ nhưng thường không đe dọa tính mạng. Tình trạng quá tải, chế độ ăn uống thiếu tốn, thiếu nước sạch, nhà vệ sinh bẩn thỉu vẫn là những vấn đề nghiêm trọng. Các phương tiện truyền thông do nhà nước quản lý bị cấm đưa tin về các điều kiện sinh hoạt này.
Điều kiện Vật chất: Số lượng tù nhân và người bị giam giữ không được công bố không khai, tuy vậy tổ chức phi chính phủ (NGO) Trung tâm Nghiên cứu Nhà tù Quốc tế báo cáo số lượng tù nhân vào giữa năm 2012, bao gồm những người bị tạm giam chờ xét xử, là 130.180 người, trong đó 12,6% là phụ nữ. Chính quyền thường giam giữ cách ly nam và nữ, vẫn có một số trường hợp ngoại lệ tại các trung tâm giam giữ địa phương do không đủ chỗ. Chính quyền giam giữ cách ly thanh thiếu niên và người trưởng thành, tuy nhiên cũng có những trường hợp hiếm hoi, thanh thiếu niên bị giam giữ chung với người trưởng thành trong khoảng thời gian ngắn do không còn chỗ.
Chính quyền thường đưa các tù nhân chính trị vào các nhà tù được chỉ định, nơi cũng giam giữ các tội phạm khác. Tuy nhiên trong hầu hết trường hợp, chính quyền giam giữ cách ly tù nhân chính trị và phi chính trị. Chính quyền cô lập hoàn toàn một số tù nhân chính trị có ảnh hưởng.
Tù nhân có chăm sóc y tế cơ bản, mặc dù có nhiều trường hợp, chính quyền ngăn cản thân nhân cung cấp thuốc men cho tù nhân. Ngoài ra, thân nhân những nhà hoạt động bị cầm tù hiểu rõ tình trạng sức khoẻ của người nhà cho biết điều trị y tế của nhà tù không thích hợp và dẫn đến những biến chứng đối với sức khoẻ lâu dài hơn. Vào tháng 6, Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực phản đối điều kiện của nhà tù, bao gồm việc khiếu nại các điều kiện của nhà tù làm bệnh tim mãn tính của ông thêm trầm trọng. Vào tháng 9 ông Đinh Đăng Định, giáo viên trung học ở tỉnh Dak Nông bị bắt giữ vì những bài viết đăng tải trên mạng của ông vào năm 2011 và bị kết án sáu năm tù giam vào tháng 8-2012. Ông được phép phẫu thuật ung thư dạ dày tại Tp.HCM
Những trường hợp tử vong trong tù hầu hết đều liên quan đến điều kiện sức khoẻ, bị trầm trọng thêm do chăm sóc y tế kém và chậm trễ, vệ sinh kém và suy dinh dưỡng. Một số thân nhân tù nhân cáo buộc do chính quyền dùng vũ lực gây tử vong. (xem phần 1.a)
Tù nhân thường bị bắt làm việc không lương. Họ đôi khi bị chính quyền biệt giam và ngăn cấm sách báo để đọc hoặc bút vở để viết trong khoảng thời gian đôi khi lên đến vài tháng. Gia đình tù nhân tìm cách để tù nhân nhận được quyền lợi bằng cách hối lộ cho các viên chức nhà tù hoặc thực hiện tuyệt thực.
Quản lý: Ngay cả khi án tù có thể rất dài, nhưng chính quyền không cưỡng ép người tù chịu quá mức án đã được kết án. Không hề có thanh tra nhà tù và không hề có sự xem xét thay đổi chế độ giam giữ cho những người tội nhân bất bạo động. Quản lý trại giam không hề giữ hồ sơ đầy đủ và số liệu thống kê nhiều lúc mâu thuẫn.
Chính quyền giới hạn lần thăm gặp của tù nhân và gia đình là 30 phút cho một lần trong tháng, và nhìn chung gia đình được phép cung cấp thực phẩm và chăn, gối cho tù nhân. Gia đình các tù nhân chính trị tiếp tục báo cáo tình trạng chính quyền cho lực lượng an ninh gia tăng kiểm soát và sách nhiễu cũng như can thiệp vào công việc, học tập và các hoạt động tài chính của họ. Ngoài ra, chính phủ còn ngăn cản các nhà ngoại giao gặp gỡ tù nhân mà chỉ cho phép các nhà ngoại giao đề xuất một tù nhân được gặp trong năm.
Chính quyền thường xuyên thuyên chuyển tù nhân nhằm gây khó khăn việc thăm gặp đối với gia đình. Vào tháng 2, chính quyền đã chuyển trại Nguyễn Văn Hải (bút danh Điếu Cày) sang Bà Rịa-Vũng Tàu, mà không thông báo cho gia đình. Ông Hải cho biết quản giáo buộc ông phải vứt bỏ tất cả đồ dùng cá nhân, bao gồm sách vở, báo chí, giấy, bút và biệt giam ông hơn hai tháng. Vào tháng 4, chính quyền lại chuyển trại ông Hải sang tỉnh Nghệ An và biệt giam ông, sau đó ông bắt đầu tuyệt thực.
Vào tháng 5, chính quyền chuyển trại Tạ Phong Tần, người đạt giải Phụ Nữ Can Đảm Quốc Tế 2013, đang chịu án 10 năm tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88), từ trại tù tỉnh Đồng Nai sang tỉnh Thanh Hoá. Bà cho biết việc thuyên chuyển này làm sức khoẻ của bà càng xấu đi.
Giám sát độc lập: Mặc dù đã được phép, nhưng Uỷ ban Chữ thập đỏ Quốc tế không được yêu cầu cũng như thăm gặp tù nhân suốt năm qua.
d. Bắt và Giam Giữ Tuỳ Tiện:
Luật pháp cho phép chính phủ bắt người với tội danh mập mờ “an ninh quốc gia”. Chính phủ tiếp tục bắt và giam giữ các cá nhân như vậy bằng những những quy định pháp luật khác và một số nhà hoạt động bị giam giữ hành chính hoặc quản thúc tại gia.
Vai Trò của Bộ Máy An Ninh và Công An:
Giữ gìn an ninh quốc gia là nhiệm vụ của Bộ Công an, mặc dù tại một số vùng sâu vùng xa, quân đội mới là cơ quan nhà nước chính yếu thực hiện chức năng bảo an xã hội bao gồm cả việc duy trì trật tự xã hội trong trường hợp bất ổn dân sự. Bộ Công an điều hành công an, cơ quan điều tra an ninh quốc gia và các đơn vi an ninh nội bộ khác.
Tổ chức bộ máy công an tồn tại ở cấp tỉnh, quận và địa phương và dưới sự quản lý của Uỷ ban nhân dân mỗi cấp. Mặc dù Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (Phòng Công tố) có thẩm quyền điều tra tệ lạm dụng quyền lực của lực lượng an ninh, tuy nhiên các tổ chức của lực lượng công an hoạt động rất tuỳ tiện và thiếu minh bạch. Tại cấp xã, lực lượng dân quân tự vệ bao gồm cả cư dân tại đấy để hỗ trợ lực lượng công an. Lực lượng công an nhìn chung rất hiệu quả trong việc duy trì trật tự xã hội, tuy nhiên năng lực của lực lượng này, đặc biệt, trong điều tra, rất giới hạn, nguồn lực và đào tạo thiếu về chất lượng lẫn số lượng. Một vài chính phủ nước ngoài vẫn tiếp tục hỗ trợ đào tạo cho lực lượng công an và quản lý trại giam cấp tỉnh nhằm nâng cao kỷ năng chuyên môn.
Thủ Tục Bắt Giữ và Cách Đối Xử với Người bị giam giữ
Luật pháp đề ra quy trình từ lúc cá nhân bị bắt giữ và cách xử lý cho đến khi chính quyền xét xử tội trạng của họ. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ban hành lệnh bắt giữ, thường là theo yêu cầu của công an, mặc dù lực luợng công an có thể bắt giữ khi chưa có lệnh mà chỉ dựa trên đơn khiếu nại của một người nào đó. Viện Kiểm sát đưa lệnh bắt sau đó trong những trường hợp như vậy. Viện Kiểm sát phải là bên đưa ra quyết định tiến hành một cuộc điều tra hình sự chính thức đối với người bị bắt trong vòng chín ngày; nếu không công an phải thả nghi phạm. Chính phủ thường vi phạm quy trình chín ngày đó và không thông báo một cách nhất quán cho người bị bắt họ phạm tội gì.
Theo luật định, người bị bắt có quyền tiếp xúc với luật sư trong thời gian bị bắt giữ; tuy nhiên, chính quyền vẫn theo cách thức quan liêu gây chậm trễ cho việc tư vấn pháp lý. Trong những hợp bị điều tra theo luật an ninh quốc gia, chính quyền ngăn cấm luật sư biện hộ được tiếp xúc thân chủ cho đến sau khi cuộc điều tra kết thúc và nghi phạm đã có tội danh chính thức, thường sau khoảng bốn tháng. Theo quy định, cuộc điều tra có thể vẫn tiếp tục và việc tiếp cận để được tư vấn bị từ chối trong khoảng hơn hai năm. Ngoài ra, sự khan hiếm các luật sư được đào tạo cũng như sự bảo vệ quyền lợi cho bị cáo không đầy đủ dẫn đến việc người bị bắt rất hiếm khi được tiếp xúc với luật sư một cách nhanh chóng. Chỉ có người vị thành niên và người đã bị buộc tội một cách chính thức được chỉ định luật sư.
Luật pháp yêu cầu cơ quan chức năng thông báo cho luật sư bào chữa quá trình thẩm vấn thân chủ của họ và cho phép họ được tham dự, tuy nhiên trước hết bị cáo cần phải yêu cầu có luật sư. Vẫn chưa biết rõ rằng cơ quan chức năng có thường xuyên thông báo cho bị cáo biết quyền này của họ hay không. Luật pháp cũng yêu cầu cơ quan chức năng phải cung cấp hồ sơ cho luật sư và cho phép họ sao chép các tài liệu. Đôi lúc luật sư cũng có thể thực hiện các quyền như trên, mặc dù những người đại diện cho thân chủ bị giam vì lý do chính trị báo cáo rằng họ không thể thực hiện trách nhiệm này cho thân chủ của họ cũng như thực thi quyền của họ theo luật định.
Công an thường thông báo cho gia đình người bị bắt nơi giam giữ, tuy nhiên gia đình chỉ được phép thăm gặp người bị bắt khi được phép của điều tra viên, và họ thường xuyên không cấp giấy phép này. Trong quá trình điều tra, cơ quan chức năng thường xuyên từ chối quyền được tiếp xúc với gia đình của người bị bắt, đặc biệt trong những trường hợp an ninh quốc gia. Trước khi có bản cáo trạng chính thức, người bị bắt có quyền thông báo cho gia đình, tuy vậy vẫn có một số người bị bắt vì nghi ngờ liên quan đến an ninh quốc gia không được cho phép tiếp xúc bên ngoài. Thời gian bị giam giữ trước khi xét xử được tính vào thời gian bị kết án và phục vụ án tù.
Toà án có thể kết án giam giữ hành chính một người lên đến năm năm tù sau khi mãn hạn tù. Ngoài ra, công an hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước bảo trợ nhưng được gọi là “tổ chức quần chúng” có thể đề xuất một trong năm “biện pháp hành chính” khác nhau được những người trong Uỷ ban nhân dân cấp quận, cấp tỉnh áp đặt mà không cần xét xử. Các biện pháp này bao gồm những án phạt dao động từ sáu đến 24 tháng hoặc gửi vào trường giáo dưỡng vị thành niên hoặc các trung tâm giam giữ người trưởng thành. Chính quyền thường áp dụng những biện pháp như vậy đối với những người tái phạm nhiều lần những tội danh nhỏ, như trộm cắp vặt hoặc “sỉ nhục người khác.” Những án phạt 24 tháng thường dành cho những người nghiện ma tuý và gái mại dâm. Những người bị kết án giam giữ tại các cơ sở này thường bị bắt làm việc có định mức để trả cho chi phí dịch vụ và chi phí giam giữ. Những người trong uỷ ban cũng có thể đề xuất những án phạt “quản chế hành chính”, thường là hình thức hạn chế đi lại. Chính quyền tiếp tục trừng phạt các cá nhân bằng những điều luật diễn đạt mơ hồ về an ninh quốc gia.
Rất nhiều người bị bắt, đặc biệt đối với những người bị kết án vì an ninh quốc gia, cho biết họ không được tiếp xúc với tư vấn pháp lý thường xuyên và bị hạn chế tiếp cận tài liệu và thông tin hỗ trợ trong việc chuẩn bị bảo vệ pháp lý , ngay cả Luật Hình sự của chính nước họ.
Không hề có cơ chế bảo lãnh hoặc cơ chế tương đương thả người có điều kiện.
Bắt Giữ Tuỳ Tiện: Việc bắt và giam giữ tuỳ tiện, đặc biệt với các nhà hoạt động chính trị vẫn là một vấn đề. Chính quyền vẫn sử dụng những nghị định, pháp lệnh và các biện pháp khác để bắt giữ các nhà hoạt động vì bày tỏ ôn hoà quan điểm chính trị đối lập (xem phần 2.a)
Chính quyền bắt giữ những người với cáo buộc tiết lộ bí mật quốc gia, tội lật đổ, và lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, và các tội danh khác như là một phương tiện đàn áp giới bất đồng chính kiến và vận động chính sách.
Chính phủ báo cáo trong đầu năm 2012 (số liệu mới nhất) có hơn 43.000 người nghiện ma tuý – một con số lớn những người bị cưỡng ép cai nghiện mà không cần thông qua xem xét tư pháp – đang sống trong 121 trại cai nghiện trên khắp cả nước. Tại những trung tâm này, theo báo cáo của tổ chức NGO 2011, chính quyền đã ép buộc họ làm những công việc thấp kém trong điều kiện tồi tàn và ngược đãi họ (xem phần 7.b)
Luật xử lý vi phạm hành chính được thông qua vào tháng 6-2012 đã bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1-7, ngoại trừ một số quy định do toà án nhân dân xử lý, điều luật này dự kiến sẽ được áp dụng vào ngày 1-1-2014. Điều luật này đưa ra thủ tục tư pháp mới nhằm thay thế hệ thống giam giữ hành chính có thủ tục pháp lý để cưõng bức những người bị cáo buộc vào các trung tâm cai nghiện. Sau khi điều luật này được ban hành, bộ Tư pháp đã tổ chức các hội nghị, hội thảo và tập huấn cho việc thực hiện. Tính đến tháng 10, bộ Tư pháp báo cáo đang soạn thảo 26 nghị định để thực hiện điều luật. Vào cuối năm nay, các quy định pháp luật cung cấp cho quy trình này vẫn chưa được áp dụng.
Vào ngày 21 tháng 5, công an bắt giữ ngắn hạn các blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (còn gọi Mẹ Nấm Gấu), Nguyễn Tiến Nam (còn gọi Binh Nhì) và Phạm Văn Hải (còn gọi Sea Free) sau khi họ phân phát bản sao của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (TNQTNQ) và bong bóng bay với biểu tượng nhân quyền tại Nha Trang.
Chính quyền cũng theo dõi các nhà hoạt động tôn giáo và chính trị tuỳ theo mức độ khác nhau giam giữ không chính thức tại nơi ở của họ. Theo các báo cáo độc lập, công an tại Tp.Hồ Chí Minh và Hà Nội tiếp tục theo dõi các hoạt động của những nhà hoạt động nổi trội như Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Bắc Truyển, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Đài, Phạm Hồng Sơn và Lê Công Định.
Giam Giữ Trước Khi Xét Xử: Thời gian điều tra thường kéo dài từ ba tháng đối với những tội ít nghiêm trọng (bản án lên đến ba năm tù), cho đến 16 tháng tù cho những tội đặc biệt nghiêm trọng (bản án trên 15 năm tù hoặc tử hình), và hơn hai năm đối với các trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia. Tuy vậy, cũng có những cuộc điều tra vô thời hạn. Pháp luật quy định, Viện kiểm sát cũng có thể yêu cầu giam giữ thêm hai tháng sau khi hoàn tất điều tra nhằm xem xét liệu có truy tố hoặc có yêu cầu điều tra thêm hay không. Các nhà điều tra đôi khi vẫn sử dụng vũ lực, cô lập và thẩm vấn quá mức và gây mất ngủ buộc người bị bắt phải nhận tội.
Vào ngày 2 tháng 10, toà án Hà Nội kết án Lê Quốc Quân, một doanh nhân và cũng là một luật sư nhân quyền bị bắt và giam giữ vào tháng 12-2012 mà không qua xét xử. Ông bị kết án trốn thuế và chịu mức án 30 tháng tù giam, cùng với mức phạt 1,2 tỉ VNĐ ($56,800). Toà án cũng yêu cầu công ty của ông, Vietnam Solution, phải trả tiền thuế bị cáo buộc trốn thuế.
Đặc xá: Trong ngày Quốc khánh truyền thống của mình, chính phủ đã công bố thả hơn 15.000 tù nhân trên toàn quốc, trong đó có 16 người nước ngoài. Bốn cá nhân bị kết án về tội liên quan đến an ninh quốc gia nằm trong số những người được thả: Dương Đức Phong và Hoàng Hưng Quyền, người đã bị kết tội làm gián điệp, Y Kon Nie và Y Hương Nie, những người đã bị bỏ tù vì tội “phá hoại chính sách đoàn kết” (Điều 87 ).
e . Khước từ quyền được xét xử công khai
Pháp luật quy định về tính độc lập của thẩm phán và ban hội thẩm, nhưng Đảng kiểm soát các tòa án ở tất cả các cấp thông qua kiểm soát hiệu quả của các cuộc họp của ngành tư pháp và các cơ chế khác và trong nhiều trường hợp bản án đã được quyết định trước. Như trong những năm qua, ảnh hưởng chính trị, nạn tham nhũng lan tràn, và tính không hiệu quả đã bóp méo mạnh mẽ hệ thống tư pháp. Hầu hết, nếu không phải tất cả, các thẩm phán đều là Đảng viên và đã được bổ nhiệm ít nhất một phần vì quan điểm ĐCS của họ. Ảnh hưởng của đảng là đặc biệt đáng chú ý trong các vụ xử các nhà bất đồng có tiếng và các trường hợp khác, trong đó chính quyền kết án những người thách thức hoặc làm tổn hại đến đảng hoặc nhà nước.
Tiếp tục thiếu hụt các luật sư và thẩm phán được đào tạo. Liên đoàn Luật sư Việt Nam phụ thuộc sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (VFF) của Đảng, một tổ chức mẹ giám sát tất cả các tổ chức xã hội do chính phủ tài trợ của đất nước, và được phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và Hội Luật gia Việt Nam.
Thủ tục xét xử
Hiến pháp quy định rằng công dân vô tội cho đến khi chứng minh có tội, mặc dù nhiều luật sư phàn nàn rằng các thẩm phán thường coi công dân như có tội. Các phiên xử nói chung là mở cửa cho công chúng, nhưng trong trường hợp nhạy cảm thẩm phán đóng cửa phiên tòa hoặc hạn chế tham gia nghiêm ngặt. Bồi thẩm đoàn không được sử dụng.
Cơ quan công tố cáo buộc chống lại một người bị buộc tội và phục vụ như là công tố viên trong các phiên xử. Bị cáo có quyền được thông báo kịp thời và chi tiết các cáo buộc chống lại họ, với sự giải thích miễn phí nếu cần, nhưng điều này không phải luôn luôn thực hiện. Bị đơn có quyền có mặt và có một luật sư tại phiên tòa, mặc dù không nhất thiết phải là luật sư của sự lựa chọn của họ, và quyền này thường được tôn trọng. Bị cáo không thể đủ khả năng thuê một luật sư thường được cung cấp chỉ khi liên quan đến người chưa thành niên hoặc với các bản án nằm trong khung tù chung thân hoặc tử hình. Luật sư biện hộ thường có ít thời gian trước phiên xử để kiểm tra bằng chứng chống lại khách hàng của họ. Bị đơn hoặc luật sư bào chữa có quyền kiểm tra chéo các nhân chứng, nhưng có những trường hợp mà bị cáo và luật sư của họ cung không thể truy cập các bằng chứng của chính phủ trước phiên tòa, các nhân chứng liên quan hoặc văn bản cáo buộc.
Bị cáo có quyền không bị ép buộc phải nhận tội và quyền tránh làm chứng. Các nhà điều tra đôi khi tiếp tục sử dụng bạo lực thể xác, cô lập, thẩm vấn quá dài và làm mất ngủ buộc tù nhân phải thú nhận. Trong trường hợp an ninh quốc gia, các thẩm phán đôi khi không cho luật sư biện hộ trình bày vì khách hàng của họ tại tòa án. Người bị kết án có quyền kháng cáo. Tòa án huyện và tòa án tỉnh không công bố thủ tục tố tụng của họ, nhưng Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục công khai các thủ tục tố tụng của tất cả các trường hợp mà nó xem xét.
Có tiếp tục được báo cáo đáng tin cậy rằng chính quyền gây áp lực luật sư bào chữa không nhận bào chữa cho các nhà hoạt động tôn giáo hay dân chủ. Chính quyền cũng hạn chế, sách nhiễu , bắt giữ, tước quyền luật sư, và trong một số trường hợp, bắt giữ luật sư nhân quyền, những đại diện cho người hoạt động chính trị. Chính quyền ngăn cản luật sư Lê Trần Luật, Huỳnh Văn Đông, Lê Công Định và Nguyễn Văn Đài hành nghề luật sư .
Các Tù nhân Chính trị và Người bị giam giữ
Tiếp tục có các ước tính không chính xác về số tù nhân chính trị, mặc dù số lượng tăng lên trong năm. Chính phủ báo cáo đang giam giữ hơn 120 tù nhân chính trị vào cuối năm, mặc dù một số nhà quan sát quốc tế nói con số lớn hơn. Nguồn tin ngoại giao cho rằng bốn trung tâm cải tạo trong cả nước giam giữ khoảng 4.000 tù nhân.
Trong năm, chính phủ đã kết án 61 nhà hoạt động . Trong số đó, 54 nhà hoạt động đã bị kết án về tội an ninh quốc gia, trong đó có 37 người với “âm mưu lật đổ chính quyền” (Điều 79), 8 người với “phá hoại chính sách đoàn kết” (Điều 87), 5 với “tuyên truyền chống nhà nước” ( Điều 88), và 4 với “chạy trốn ra nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân” (Điều 91). Bên cạnh những kết án về tội an ninh quốc gia, 7 nhà hoạt động đã bị kết án về tội khác nhau, bao gồm 4 người vì “gây rối trật tự công cộng” (Điều 245), một người vì “chống người thi hành công vụ” (Điều 257), một người vì “lợi dụng các quyền tự do dân chủ,” (Điều 258) và một vì “trốn thuế” (Điều 161).
Mặc dù chính quyền tăng cường nỗ lực đàn áp chính trị thông qua bắt giữ tùy tiện và kết án vì động cơ chính trị, chính quyền cũng ngày càng sử dụng các phương pháp quấy rối ít truyền thống, bao gồm cả các mối đe dọa đối với cá nhân và các thành viên gia đình, giam giữ ngắn hạn mà không kết tội, và theo dõi.
Ví dụ, vào 16 tháng 5, Tòa án nhân dân tỉnh Long An kết án Nguyễn Phương Uyên đến 6 năm tù giam 3 năm quản chế và Nguyễn Đình Kha đến 8 năm tù giam và 2 năm quản chế vì “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88). Các nhà chức trách bắt giữ họ trong tháng 11 năm 2012 với cáo buộc làm ra và phán tán tờ rơi chống Đảng và chống Trung Quốc và có liên kết đến tổ chức chính trị “Tuổi trẻ yêu nước” (Young Patriots). Vào 16/8, Tòa phúc thẩm phóng thích Uyên nhưng kèm quản thúc tại gia 3 năm. Tòa giảm án Kha đến 4 năm tù giam. Theo quyết định của tòa phúc thẩm vào tháng 8, theo báo cáo thì các quan chức an ninh đã cưỡng bách Kha thừa nhận đã thực hiện hành vi khủng bố. Theo gia đình Kha, cơ quan điều tra đã bỏ những cáo buộc này trong tháng 11.
Chính phủ cũng bắt giữ và truy tố người dân tộc thiểu số vì một loạt các hành vi phạm tội chống nhà nước. Ví dụ, vào 28/5, Tòa án nhân dân tỉnh Lai kết án 8 người dân tộc thiểu số từ 3 đến 11 năm tù giam theo Điều 87, những người này có liên hệ với một nhà thờ Công giáo không đăng ký. Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân Lai dân tỉnh Gia, người Thượng tổ chức vài cá nhân chống lại kế hoạch xây dựng một nhà máy thủy điện tại Hà Môn và kết hợp với Mặt trận FULRO. Tám người cũng bị kết tội cố gắng thiết lập một “nhà nước độc lập” cho người dân tộc thiểu số ở Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum, Lâm Đồng.
Cơ quan chức năng tiếp tục bắt giữ và bỏ tù những cá nhân khác, những người sử dụng internet để công bố ý tưởng về nhân quyền, các chính sách của chính phủ, và đa nguyên chính trị (xem phần 2.a.).
Một số nhà bất đồng chính liên kết với những tổ chức chính trị bất hợp pháp, bao gồm Đảng Dân chủ Nhân dân, Đảng Nhân dân Hành động, Việt Nam Tự Do, Đảng Dân chủ Việt Nam, Tổ chức Liên kết Công nông, và Khối 8406 – vẫn còn ở trong tù hay quản thúc tại gia tại các địa điểm khác nhau.
Chính quyền đã that một số nhà hoạt động chính trị và tôn giáo có tiếng ra khỏi nhà tù. Vào 6/2, chính quyền thả luật sư nhân quyền Lê Công Định kèm quản chế. Ông đã bị kết án đến 5 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia vì đã bênh vực các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ vào 2010. Ông vẫn bị quản thúc tại nhà vào cuối năm nay.
Thủ tục Tư pháp dân sự và Biện pháp
Chưa có cơ chế rõ ràng và hiệu quả để theo đuổi một vụ kiện dân sự để bồi hoàn hoặc khắc phục các vi phạm từ phía chính quyền. Vụ kiện dân sự được xét xử bởi các tòa hành chính, dân sự và hình sự, tất cả đều thực hiện theo các thủ tục tương tự như trong vụ án hình sự, và được xét xử bởi các thành viên của cùng một cơ quan của các thẩm phán và ban hội thẩm. Tất cả ba cấp độ tiếp tục tràn lan tham nhũng, thiếu độc lập, và thiếu kinh nghiệm.
Theo luật, nếu một công dân tìm cách khiếu nại về vi phạm nhân quyền của một công chức thì phải đối mặt với những rào cản khó khăn và yêu cầu đầu tiên là đề nghị các công chức bị cáo buộc cho phép nạp đơn khiếu nại đến tòa án. Nếu công chức từ chối một đơn khởi kiện, công dân có quyền khiếu nại đến cấp trên của công chức. Nếu công chức hoặc cấp trên chấp nhận đơn khiếu nại cho phiên xử, một tòa án hành chính sẽ lãnh vấn đề này. Nếu tòa án đồng ý rằng trường hợp cần phải truy cứu, họ giao cho tòa án dân sự nếu thương tích liên quan tìm kiếm bồi thường ít hơn 20 phần trăm chi phí chăm sóc sức khỏe do các cáo buộc lạm dụng, hoặc giao cho tòa án hình sự nếu bồi thường hơn 20 phần trăm chi phí như vậy. Kết quả của hệ thống phức tạp với cách giới thiệu và cho phép này đã làm cho người dân khó đạt được khi tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự hoặc hình sự để khắc phục vi phạm nhân quyền, và một số chuyên gia pháp lý đã có kinh nghiệm có liên quan.
Chính phủ tiếp tục cấm các vụ kiện đại diện cho tập thể chống lại các bộ ngành chính phủ, do đó khiến các dân oan không khiếu kiện tập thể được.
Bồi thường Tài sản
Pháp luật quy định về bồi thường, nhà ở và đào tạo nghề cho cá nhân phải di dời do dự án phát triển. Khiếu kiện phổ biến kéo dài do bồi thường không thỏa đáng hoặc trì hoãn, quan chức tham nhũng, và thiếu minh bạch trong quá trình chính phủ tịch thu đất đai và di chuyển dân để mở đường cho các dự án cơ sở hạ tầng. Một số thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số ở miền Trung và Tây Bắc Tây Nguyên tiếp tục phàn nàn rằng họ không nhận được bồi thường thỏa đáng khi chính phủ tịch thu đất để phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn. Trong tháng Sáu, Quốc hội hoãn thông qua Luật Đất đai sửa đổi để nghiên cứu thêm.
f . Can thiệp tùy tiện vào sự Riêng tư, gia đình, Tư gia, hoặc Thư tín
Luật pháp nghiêm cấm xâm phạm tùy tiện vào đời tư, gia đình, nhà cửa, hay thư tín, nhưng chính phủ không tôn trọng những điều cấm này.
Phải có lệnh của viện kiểm sát nếu muốn xâm nhập vào nhà dân, mặc dù lực lượng an ninh hiếm khi theo các thủ tục để có lệnh như vậy, và thay vào đó họ xin phép vào nhà với một giọng ngụ ý đe dọa nếu không hợp tác. Những người bất đồng chính kiến, trong đó có Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, và Đình Nhật Uy, báo cáo rằng cảnh sát lấy đi bất hợp pháp máy tính cá nhân, điện thoại di động, và các tài liệu khác từ nhà và / hoặc văn phòng của họ.
Ngày 25/9, có từ 20 đến 30 công an mặc đồng phục và thường phục xông vào nơi cư trú của blogger Nguyễn Tường Thụy tại Hà Nội mà không có một bảo đảm pháp lý và bắt giữ 9 người, trong đó có Nguyễn Phương Uyên, mẹ của Uyên, cựu tù nhân Phạm Bá Hải, bà Dương Thị Tân ( vợ cũ của Điếu Cày), Lê Quốc Quyết (em trai Lê Quốc Quân), và những người khác. Một số nhân chứng cho biết các viên chức của Bộ Công an đã chuyển cả nhóm đến một trạm cảnh sát Hà Nội, thẩm vấn họ, và tấn công vài người. Cảnh sát thả họ sau 5 tiếng giam giữ. Cả Nguyễn Phương Uyên và Lê Quốc Quyết đều bị bầm tím trên khuôn mặt trong những ngày sau khi vụ việc xảy ra.
Trong năm qua, chính quyền thỉnh thoảng ngăn chặn các nhà hoạt động chính trị và các thành viên gia đình của các tù nhân chính trị đến gặp mặt các nhà ngoại giao nước ngoài. Chiến thuật bao gồm thiết lập các rào cản hoặc dàn nhân viên bảo vệ bên ngoài nơi ở của các nhà ngoại giao và các nhà hoạt động, và triệu tập các cá nhân vào các trạm cảnh sát địa phương để thẩm vấn tùy tiện và lặp đi lặp lại. Trong chuyến thăm tháng tư của một quan chức cấp cao nước ngoài nhằm đánh giá và thảo luận về tình trạng nhân quyền, chính phủ đã bắt giữ một nhà hoạt động có tiếng và chặn nhà của một người khác. Do đó, vị quan chức cấp cao đã không thể thực hiện các hoạt động theo như kế hoạch. Chính quyền một lần nữa ngăn chặn một quan chức cấp cao nước ngoài đến gặp mặt một trong hai nhà hoạt động trong tháng Mười.
Cơ quan chức năng tiếp tục mở và kiểm duyệt email của người đang theo dõi; tịch thu hàng bưu phẩm và thư từ và theo dõi các cuộc điện thoại, e -mail, tin nhắn, blog, và fax. Chính phủ tiếp tục cắt đường dây điện thoại và làm gián đoạn các dịch vụ điện thoại di động và Internet của một số nhà hoạt động chính trị và các thành viên gia đình của họ.
Bộ Công an duy trì một hệ thống đăng ký hộ khẩu và dân phòng để theo dõi dân số. Trong khi hệ thống này là ít xâm nhập hơn trong quá khứ, Bộ Công an tiếp tục theo dõi các cá nhân bị nghi ngờ tham gia, hoặc là có khả năng tham gia vào các hoạt động chính trị trái phép. Báo cáo đáng tin cậy cho rằng cảnh sát địa phương tiếp tục sử dụng côn đồ hợp đồng và nhóm công dân của nhà nước để quấy rối và đánh đạp các nhà hoạt động chính trị và những người khác, bao gồm cả tín đồ tôn giáo, bị coi như những người không được mong muốn hoặc là mối đe dọa đối với an ninh công cộng. Ví dụ, ngày 3 tháng 7, nhóm người mặc đồ thường phục tấn công chùa Cao Đài đọc lập ở Vinh trong tỉnh Tiền Giang đã làm bị thương 12 người. Cơ quan chức năng tiếp tục quấy nhiễu người bị nghi là đã tham gia vào các hoạt động chính trị hoặc tôn giáo trái phép.
Chính phủ tiếp tục theo đuổi một chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản, theo đó thiết lập số trẻ con trung bình của mỗi cặp vợ chồng (xem phần 6, Phụ nữ).
Sự cố quấy rối thân thể, hăm dọa, và tra hỏi các thành viên gia đình của cơ quan an ninh đã được báo cáo trong một số địa điểm, trong số các đó có Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Nghệ An. Lê Quốc Quyết đã báo cáo rằng cảnh sát mặc thường phục tấn công anh ta nhiều lần. Nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng cho rằng cảnh sát mặc thường phục bao vây nơi cư trú của mình trong vài ngày, và cảnh sát theo dõi cô và một số thành viên gia đình và tấn công con trai cô.
Đảng viên vẫn là một điều kiện tiên quyết để phát triển nghề nghiệp trong tất cả các ban ngành, tổ chức và các doanh nghiệp chính phủ. Tuy nhiên, đa dạng hóa kinh tế tiếp tục làm vị trí Đảng viên trong khối đảng và khối các đoàn thể Đảng ít quan trọng hơn trong việc thăng tiến xã hội.
Trong năm đã có một số tranh chấp đất đai và các cuộc biểu tình liên quan liên quan đến chính phủ.
Vào ngày 11/9, trong Thành phố Thái Bình, Đặng Ngọc Viết đã giết một viên chức đất đai của địa phương Võ Ngọc Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất của Thành phố Thái Bình, và làm bị thương bốn quan chức khác tại Ủy ban nhân dân thành phố. Ông đã tự sát vài giờ sau đó. Vụ nổ súng được cho là có nguyên nhân từ một bất đồng liên quan đến bồi thường giải phóng mặt bằng.
Ngày 3/4, Tòa án nhân dân Hải Phòng tại Tiên Lãng, Hải Phòng, đã kết án Đoàn Văn Vươn 5 năm tù giam. Cùng với một số thành viên gia đình, tòa án kết tội ông Vươn cài mìn và bắn súng tự chế vào cảnh sát. Cáo buộc bắt nguồn từ một sự cố tháng 1 năm 2012, theo đó chính quyền đã cố gắng đuổi gia đình ông Vươn ra khỏi vùng đất nơi họ điều hành một doanh nghiệp tôm. Vào ngày 31/7, tòa án phúc thẩm đã giữ y án.
Theo các nguồn tin phi chính phủ, mức độ quan tâm của công chúng về quyền sử dụng đất và các liên quan với sự ổn định chính trị và xã hội đã dẫn đến cuộc kêu gọi sửa đổi Luật Đất đai năm 2003. Công dân đã hành động để bảo vệ quyền sử dụng đất của mình thông qua cả hai phương pháp chính thức và không chính thức. Số lượng khiếu nại về tranh chấp đất đai đã tăng lên đáng kể trong thập kỷ qua, chiếm 70% đến 90% của tất cả các kiến nghị và khiếu nại. Trong 10 tháng đầu năm 2012, các nguồn từ phi chính phủ báo cáo rằng hơn 97% của 3.193 kiến nghị gửi đến chính phủ liên quan vấn đề đất đai, chỉ có 1.106 nhận được câu trả lời. Người đứng đầu Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh, ước tính trong năm có ít nhất 500 chính thức, các trường hợp tranh chấp đất đai chưa được giải quyết.
Phần 2: Tôn trọng tự do công dân, bao gồm
a. Tự do ngôn luận và báo chí
Mặc dù Hiến pháp và luật cho phép tự do ngôn luận, bao gồm cả giới báo chí, Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng lực lượng an ninh đồ sộ và nhiều văn bản cấm nói xấu để hạn chế những tự do đó. Luật xác định những tội danh “phá hoại hạ tầng của chủ nghĩa xã hội”, “gây chia rẽ giữa những người có đạo và không theo đạo” và “tuyên truyền chống lại nhà nước” là những tội nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia. Luật cũng cấm “lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước và các tổ chức xã hội”.
Tự do ngôn luận: Chính phủ đã tiếp tục hạn chế những phát biểu phê phán cá nhân lãnh đạo, ủng hộ đa nguyên chính trị hoặc dân chủ đa đảng, hoặc chất vấn những chính sách về những vấn đề nhạy cảm, bao gồm nhân quyền, tự do tôn giáo hoặc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Chính phủ cũng tìm cách làm giảm những phê phán bằng cách theo dõi sự gặp gỡ và liên lạc giữa những người hoạt động chính trị.
Ngày 15/6, cảnh sát bắt giữ Đinh Nhật Uy vì “lạm dụng tự do dân chủ” (Điều 258) về những bài viết trên mạng kêu gọi chính quyền trả tự do cho người em Đinh Nguyên Kha, người đã bị kết án 8 năm tù giam trong tháng 5. Ngày 29/10, Uy bị Tòa án kết án 15 tháng án treo.
Chính quyền Việt Nam cho phép tranh luận ở một mức nào đó về chủ đề chính trị nhạy cảm. Từ 02/01 đến 30/9, chính quyền cho phép nhân dân góp ý vào bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ban đầu, thời gian góp ý tới 31/3, nhưng sau đó chính phủ kéo dài thời hạn để thu nhận thêm ý kiến của nhân dân. Chính phủ nói rằng họ đã tiếp nhận 26 triệu góp ý trong thời gian đó. Các buổi tọa đàm trực tiếp trên phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút sự tham gia của các nhân sỹ và cựu quan chức. Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới, và chủ tịch nước đã công bố bản Hiến pháp với vài thay đổi nhỏ, bỏ lơ các kiến nghị nhằm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam và cho phép dân chủ đa nguyên.
Mặc dù chính quyền ở nhiều nơi chấp nhận tranh luận chính trị trong thời gian đó, lãnh đạo của tờ báo nhà nước Gia đình & Xã hội đã sa thải nhà báo Nguyễn Đắc Kiên hôm 26/2 ngay sau khi anh này công bố một bài viết của mình trên blog cá nhân, trong đó nhà báo này phê phán Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng. Nhà báo Kiên cũng kêu gọi xóa bỏ Điều 4 của dự thảo Hiến pháp, một điều quy định sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản.
Tự do báo chí: Đảng Cộng sản Việt Nam, chính phủ và các cơ quan nhà nước kiểm soát việc in ấn, phát hành và báo điện tử. Chính phủ kiểm soát thông qua Bộ Thông tin và Truyền thông, dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương của đảng. Việc sản xuất các ấn phẩm báo chí bởi tư nhân và cá nhân bị cấm đoán. Chính quyền cho phép một số ấn phẩm của nước ngoài (bao gồm BBC và CNN), và luật yêu cầu các chương trình tivi nước ngoài phải được phát chậm lại 30 phút để có thể kiểm soát nội dung.
Phóng viên nước ngoài cho biết họ bị yêu cầu phải thông báo với chính quyền Việt Nam khi muốn di chuyển ngoài Hà Nội để viết về những chủ đề mà Việt Nam coi là nhạy cảm, hoặc tới những khu vực nhạy cảm như Tây Bắc và Tây Nguyên.
Luật hạn chế sự tiếp cận truyền hình vệ tinh tới cán bộ cao cấp, người nước ngoài, các khách sạn sang trọng và báo chí nhưng người dân ở khắp nước có thể tiếp cận truyền hình nước ngoài thông qua thiết bị vệ tinh và cáp. Truyền hình cáp, bao gồm một số kênh nước ngoài, đã được phổ biến ở các vùng thành thị.
Ngày 15/05, Quyết định 20 có hiệu lực sau nhiều lần trì hoãn. Cùng với các văn bản dưới luật khác, quyết định này yêu cầu các hãng truyền thông nước ngoài phải xin phép Bộ Thông tin và Truyền thông, và phải được dịch ra tiếng Việt bởi những cơ quan đã được chính phủ cho phép trước khi chương trình được trình chiếu. Trong một số trường hợp, các kênh truyền hình nước ngoài phải gánh chịu thêm chi phí dịch thuật. Mới chỉ có 16 kênh được cấp phép từ khi quyết định này có hiệu lực. Phản ứng lại quyết định này, một đơn vị cung cấp đã ngừng phát các kênh nước ngoài, và một số nhà cung cấp truyền hình khác cắt các kênh, như BBC và CNN. Tuy nhiên, một thời gian ngắn sau đó, các kênh này lại được phát sóng trở lại khi chính phủ nới lỏng việc áp dụng quyết định do sự phản đối của công chúng. Một số tổ chức nhân quyền đã chỉ trích quyết định này vì nó hạn chế tự do ngôn luận và giới hạn khả năng tiếp cận với các nguồn báo chí độc lập. Cho tới cuối năm, mặc dù quyết định vẫn còn hiệu lực, chính phủ không còn quyết liệt thực thi.
Bạo lực và Sách nhiễu: Lực lượng an ninh được cho là đã tấn công và đe dọa một số nhà báo bởi vì những bài viết của họ về những vấn đề nhạy cảm.
Vào ngày 24/4, hai nhà báo Hoàng Ngọc và Nam Phong thuộc trang điện tử Người đưa tin cho biết một sỹ quan cảnh sát giao thông đã tịch thu máy ghi hình của họ khi họ đang quay phim cảnh sát nhận hối lộ. Trong cùng ngày, hai nhà báo này bị hai người lạ mặt đe dọa.
Nhiều phóng viên ngoại quốc cho biết họ bị sách nhiễu bởi lực lượng an ninh, bao gồm cả đe dọa không gia hạn visa nếu họ tiếp tục viết về các chủ đề nhạy cảm.
Kiểm duyệt hoặc Giới hạn nội dung: Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tuyên giáo Trung ương liên tục can thiệp trực tiếp, hướng nội dung bài báo, hoặc kiểm duyệt nội dung. Hơn thế nữa, đảng và chính phủ kiểm soát nội dung truyền thông thông qua sự tự kiểm duyệt, nếu không người viết có nguy cơ bị sa thải hoặc bắt giam.
Chính quyền tiếp tục khống chế tự do báo chí. Nghị định 02 quy định mức phạt từ 1 triệu đồng đến 42 triệu đồng đối với nhà báo, báo giấy và báo điện tử nếu không đưa “tin tức quốc nội và quốc tế trung thực nhất, vì lợi ích của quốc gia và nhân dân”. Nghị định này cũng cho phép chính phủ phạt nhà báo và tờ báo dựa trên những xác quyết không minh bạch của nhiều bộ và quan chức. Hơn thế nữa, Nghị định thiết lập mức phạt từ 10.5 triệu đồng đến 21 triệu đồng đối với những nhà báo không công bố nguồn tin, và những nhà báo và tờ báo nếu “sử dụng những tài liệu của các tổ chức hoặc những tài liệu của cá nhân”.
Dưới sự quy định của chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông có quyền thu hồi giấy phép của nhà xuất bản ngoại quốc, và mỗi một nhà xuất bản ngoại quốc phải xin giấy phép hàng năm. Tuy nhiên, các sạp báo đường phố và các quầy hàng phục vụ du khách ngoại quốc thường bày bán những ấn phẩm bằng tiếng nước ngoài, nhiều ấn phẩm bị cấm. Các ấn phẩm định kỳ bằng tiếng nước ngoài được bày bán rộng rãi ở các thành phố lớn mặc dù chính quyền đôi khi kiểm duyệt nội dung.
Luật chống nói xấu/An ninh quốc gia: Luật yêu cầu các nhà báo phải bồi thường vật chất cho tổ chức, cá nhân về những tổn hại do bài báo gây ra, kể cả khi nội dung có chính xác. Một số nhà quan sát độc lập nhận thấy luật hạn chế các phóng sự điều tra. Mặc dù có một số phóng sự về những chủ đề nhạy cảm, ví dụ việc khởi tố quan chức đảng và chính quyền về tham nhũng hoặc phê phán quan chức hay các cơ quan nhà nước, việc tự do phê phán đảng cộng sản và lãnh đạo vẫn vô cùng hạn chế.
Ngày 15/6, cảnh sát bắt giữ Phạm Viết Đào, một nhà văn và một bloger người đã phê phán quan chức chính quyền trong những bài ông công bố dưới bút danh Phúc Lộc Thọ. Ông Đào là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và thành viên Hội Nhà báo Việt Nam và là nguyên Trưởng phòng Thanh tra Xuất bản và Báo chí.
Trong tháng 8, Cục Xuất bản thuộc Bộ TT & TT cấm lưu hành hai tập tiểu thuyết Đại gia của Nguyễn Xuân Hoàng, cũng có tên là Thiên Sơn. Tiểu thuyết này miêu tả sự liên quan giữa quan chức chính phủ và các tổng công ty nhà nước.
Tự do Internet
Chính phủ tiếp tục tiến hành nhiều biện pháp để kiểm soát sự tiếp cận mạng internet. Nó cho phép sự tiếp cận mạng nhưng thông qua một số lượng ít nhà cung cấp dịch vụ là các công ty của nhà nước hoặc dưới sự quản lý chặt của cơ quan nhà nước. Theo thống kê của chính phủ, gần 36% công dân được tiếp cận với mạng Internet.
Chính phủ sử dụng tường lửa để ngăn cản sự truy cập vào một số trang mạng mà nó cho là mang tính chính trị hoặc không phù hợp văn hóa, bao gồm cả những trang của các nhóm chính trị người Việt ở nước ngoài. Hơn thế nữa, chính phủ đôi khi chặn các trang BBC và Đài Tự do Châu Á.
Một số điều gây tranh cãi của luật và quy định như cấm tuyên truyền chống nhà nước, đã ngăn cản các blogger đăng tải những bài viết mà chính phủ cho rằng gây hại cho an ninh quốc gia, làm lộ bí mật quốc gia hoặc kích động bạo lực và tội phạm. Những điều luật trên ngăn cản các cá nhân phát tán những tài liệu mà chính phủ coi là chỉ trích. Trong năm, chính phủ đàn áp giới blogger bằng những vụ bắt bớ mang màu sắc chính trị. Chính quyền cũng sử dụng các biện pháp không truyền thống để đàn áp như bắt giữ trong thời gian ngắn, theo dõi, truy cập trái phép tài khoản email cá nhân, đe dọa trực tiếp và gián tiếp các cá nhân và thân nhân, và lục soát tài sản cá nhân.
Luật cũng yêu cầu các công ty mạng toàn cầu có cung cấp dịch vụ blogging báo cáo định kỳ 6 tháng một lần, và nếu được chính phủ yêu cầu, thì cung cấp thông tin của blogger cho chính phủ. Nhiều nhà văn, nhà báo có các trang blog, nhiều trong số đó mang lại sự tranh cãi hơn là các bài viết chính, theo các nhà quan sát. Trong một số trường hợp, chính quyền phạt và trừng phạt các cá nhân đó vì nội dung của các blog của họ.
Quy định của Bộ TT và TT yêu cầu các công ty Internet, các website xã hội và các website khác, cung cấp các thông tin về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, phải đăng ký và có giấy phép của chính phủ trước khi hoạt động. Bộ này cũng yêu cầu chủ các trang website trình báo về nội dung và tiêu chí của website để chính phủ xét duyệt. Việc áp dụng luật mang tính chọn lọc
Chính phủ cấm tiếp cận trực tiếp các trang mạng thông qua các nhà cung cấp dịch vụ ngoại quốc, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ trong nước phải lưu trữ các thông tin truyền tải qua internet ít nhất 15 ngày, và yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ phải hỗ trợ kỹ thuật cho các nhân viên an ninh, giúp họ quản lý được các hoạt động internet. Chính phủ yêu cầu các quán café internet phải đăng ký thông tin của khách hàng và lưu trữ các trang mà khách hàng đã truy cập. Chính phủ cũng yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng và quán café internet tham gia vào việc điều tra các hoạt động online. Việc tuân thủ các quy định đó của các nhà cung cấp dịch vụ mạng không rõ ràng. Mặc dù công dân mạng có thể tiếp cận các trang mạng nhiều hơn, chính phủ theo dõi email, tìm các từ khóa nhạy cảm, và quản lý nội dung internet.
Ngày 15/7, Chính phủ ban hành Nghị định 72 có hiệu lực từ ngày 01/9. Nghị định này thêm các hạn chế mới về chia sẻ các bài báo đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những từ ngữ mơ hồ của nghị định hạn chế quyền tự do phát ngôn và tăng sự bất ổn liên quan đến việc lưu trữ, chuyển tải và chia sẻ những thông tin trong nước. Nghị định này cũng cấm triệt để việc sử dụng các dịch vụ internet để chống đối chính phủ, gây hại cho an ninh quốc gia, trật tự xã hội và an toàn, hoặc tuyên truyền chiến tranh, kích động khủng bố, căm thù, bạo lực và mê tín.
Chính quyền thành phố và các tỉnh đã ban hành thêm các luật lệ tại địa phương mình nhằm kiểm soát việc truy cập internet. Các quán café phải lắp đặt các chương trình phần mềm của chính phủ để theo dõi các hoạt động của khách hành. Quán café internet bị buộc phải cách xa trường học, và phải ngắt mạng từ 23 g đêm đến 6h sáng hôm sau, nhằm ngăn chặn việc chơi game trực tuyến.
Việc ngăn chặn Facebook ít xảy ra hơn so với những năm trước, và không thường xuyên giữa các nhà cung cấp dịch vụ, các vùng, và thời điểm. Một số người cho biết họ đã sử dụng các biện pháp để vượt tường lửa. Một số nguồn cho biết số lượng tài khoản Facebook đạt con số 20 triệu vào tháng 10.
Chính quyền bắt giữ và bỏ tù một số nhà hoạt động, những người đã sử dụng internet để chỉ trích chính phủ và đăng tải những tài liệu về nhân quyền và dân chủ đa nguyên. Chính quyền thường sử dụng Điều 258 (lợi dụng tự do dân chủ) hoặc Điều 79 (âm mưu lật đổ nhà nước) để kết tội những người này.
Trong ngày 9/01, Tòa án tỉnh Nghệ An kết án 13 công dân dòng Chúa Cứu thế về tội “âm mưu lật đổ nhà nước”. Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu và Lê Văn Sơn bị tòa xử mỗi người 13 năm tù vì có liên quan đến đảng Việt Tân. Mười người khác bị án từ 3 đến 6 năm tù giam.
Các công ty dịch vụ internet của nhà nước thường xuyên chặn các trang web tiếng Việt ở trong nước nếu các trang này chứa các nội dung chỉ trích đảng cộng sản hoặc cổ súy cải tổ chính trị. Chính phủ cũng thường chặn các trang web tiếng Việt ở nước ngoài, cụ thể là các trang chỉ trích chính quyền hoặc có các bài báo phản ánh những việc xấu trong nước. Thêm nữa, hai trang web liên quan đến bộ tộc Dega ở Tây Nguyên cũng bị chặn.
Những người bất đồng chính kiến và các blogger cho biết họ thường xuyên bị cắt bỏ dịch vụ internet theo yêu cầu của lực lượng an ninh.
Tự do Nghiên cứu và các Sự kiện Văn hóa
Chính phủ vẫn duy trì hạn chế tự do nghiên cứu, và nhiều khi chính quyền theo dõi các nhà nghiên cứu nước ngoài. Các nghiên cứu viên nước ngoài làm việc tạm thời ở các trường đại học trong nước có thể tranh luận tự do về các đề tài không phải là chính trị ở trong lớp học, nhưng nhân viên chính phủ thường xuyên dự các lớp học của các giảng viên nước ngoài và trong nước. Các báo cáo khoa học thường xuyên phản ánh quan điểm của đảng và chính phủ.
Chính phủ tiếp tục hạn chế việc các cơ quan trong nước và quốc tế tổ chức các buổi hội thảo với sự tài trợ hoặc tham dự của các định chế quốc tế bằng việc yêu cầu có sự chấp thuận của chính phủ trước ít nhất 20 ngày.
Chính phủ tiếp tục cấm các tổ chức khoa học và kỹ thuật độc lập phê phán chính sách của đảng và nhà nước, và từ chối các cơ hội học tập của các cá nhân phê phán chính phủ. Nhà hoạt động Nguyễn Phương Uyên cho biết trường đại học nơi cô học đã từ chối cho cô tiếp tục học sau khi Uyên được trả tự do vào ngày 16/8. Cô cho biết trường đã đuổi học cô vào tháng 10.
Mặc dù chính phủ kiểm soát các buổi trưng bày nghệ thuật, nhạc và các hoạt động văn hóa khác, nó tiếp tục cho phép các nghệ sỹ tự chọn các đề mục cho hoạt động của mình. Chính phủ cũng cho phép các trường đại học tự chủ hơn về trao đổi và hợp tác quốc tế.
b. Tự do hội họp và lập hội
Tự do hội họp
Luật hạn chế tự do hội họp, và chính phủ tiếp tục hạn chế và kiểm soát mọi hình thức biểu tình và tụ họp. Luật yêu cầu những người muốn tụ họp phải xin phép, mà chính quyền địa phương có thể từ chối. Chỉ những vụ tụ họp mang các nội dung nhạy cảm là bị yêu cầu xin phép. Chính phủ không cho phép các vụ tụ họp mang tính chính trị, cũng như hạn chế hành lễ của một số nhóm tôn giáo bất hợp pháp.
Những cuộc biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải ở Biển Đông liên tục xảy ra trong năm ở Hà Nội và chính quyền thành phố đã bắt giữ và theo dõi những người cầm đầu cuộc biểu tình. Một số người cho biết họ bị lực lượng an ninh ngăn cản không cho họ rời khỏi nhà để tham gia vào các cuộc biểu tình này.
Ngày 05/5, cảnh sát ngăn cản các nhà hoạt động xã hội tụ tập ngoài trời và phân phát bản nhân quyền ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang. Một số người định tham gia sự kiện bị bắt và đánh đập. Trong mấy ngày của tháng 12, nhiều cá nhân tham gia ngày Nhân quyền ở ba thành phố trên và Đà Nẵng, bị quấy nhiễu, theo dõi và bị tịch thu giấy tờ cá nhân và điện thoại. Ít nhất hai người bị bắt giữ trong một thời gian ngắn.
Tự do lập hội:
Chính quyền tiếp tục hạn chế tự do lập hội, không cho phép thành lập đảng đối lập mặc cho sự cố gắng của một số cựu đảng viên cộng sản. Chính quyền cấm thành lập các tổ chức tư nhân độc lập, cho rằng đã có Mặt trận Tổ quốc đại diện cho tất cả mọi người. Một số tổ chức, bao gồm cả một số nhóm tôn giáo không đăng ký, vẫn có thể hoạt động mà không bị nhà nước can thiệp, hoặc can thiệp rất ít.
c. Tự do tôn giáo
Xem trong báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đăng tải tại: www.state.gov/j/drl/irf/rpt/.
d. Tự do đi lại, người di cư, bảo vệ người tỵ nạn và người không tổ quốc
Luật quy định tự do đi lại trong nước, ra nước ngoài, di cư, và hồi hương, nhưng chính phủ có đặt ra hạn chế việc đi lại của một số cá nhân. Chính phủ cộng tác với Cao ủy Liên Hợp quốc về người tỵ nạn (Office of the UN High Commissioner for Refugees – UNHCR) và một số tổ chức nhân đạo khác để trợ giúp những người di cư nội địa, người tỵ nạn, người tỵ nạn hồi hương, người xin tỵ nạn, và người không tổ quốc, và một số dạng người khác.
Chính quyền địa phương không ngăn cản các cuộc thăm viếng tìm hiểu của phái đoàn UNHCR đến các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, Huế, Đà Nẵng và Tây Bắc. Chính quyền các tỉnh thường cam kết giúp đỡ những người dân tộc thiểu số trở về từ Campuchia trong việc tái hòa nhập cộng đồng.
Di chuyển nội địa: Một số cựu tù chính trị như Phạm Hồng Sơn, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nhật Uy, bị hạn chế đi lại trong thời gian quản thúc tại gia.
Chính phủ quy định việc hạn chế đi lại tới một số nơi. Người dân thường và người nước ngoài phải có giấy phép mới được đến khu vực biên giới, khu vực quân sự, các khu công nghiệp liên quan đến quốc phòng, khu dự trữ chiến lược, và những công việc thuộc dạng tối quan trọng trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và mục tiêu xã hội.
Cảnh sát địa phương yêu cầu công dân phải đăng ký tạm trú khi muốn ở lại qua đêm tại một địa điểm ngoài nhà của mình, và chính phủ áp dụng việc này một cách chặt chẽ ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc. Những người mang hộ chiếu nước ngoài cũng phải đăng ký khi họ ở lại nhà dân, mặc dù chưa có trường hợp nào chính quyền địa phương từ chối không cho khách ngoại quốc ở lại gia đình bạn bè.
Chính quyền địa phương không tuân thủ triệt để luật cư trú, và việc di dân từ vùng nông thôn tới khu vực thành thị trở thành phổ biến. Tuy nhiên, nếu di chuyển không có giấy phép, người di trú sẽ gặp phải khó khăn trong việc làm giấy tờ thường trú, học hành và không được hưởng các dịch vụ y tế.
Xuất cảnh: Quan chức chính quyền đôi khi trì hoãn việc cấp hộ chiếu cho công dân với mục đích vòi tiền hối lộ. Một số người muốn di cư ra nước ngoài đôi khi gặp khó khăn trong việc làm hộ chiếu.
Cấm xuất cảnh: việc cấm xuất cảnh, là một biện pháp trừng phạt đối với những người đòi tự do ngôn luận.
Trong tháng 9, chính quyền không cho Đặng Hữu Hoàng Gia, một thành viên của Hội Ái hữu Cựu tù chính trị và tôn giáo, đi sang Manila để dự một khóa học về xã hội dân sự tổ chức bởi Vietnamese Observers Initiative for Conscience Empowerment .
Mặc dù thời hạn quản chế đã hết, chính phủ tiếp tục ngăn cấm Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Kim Thu, Vũ Quốc Tú, Lê Trần Luật và một số người khác làm hộ chiếu và xuất cảnh.
Di cư và hồi hương: Chính quyền nói chung cho phép những người định cư ở nước ngoài trở về thăm gia đình, nhưng có ngăn cấm một số nhà hoạt động hoặc một số cá nhân ở nước ngoài trở về Việt Nam. Cảnh sát cũng từ chối không cấp visa hoặc bắt giữ hoặc trục xuất những nhà hoạt động chính trị người Việt khi họ trở về cố quốc.
Chính phủ tiếp tục thực hiện thỏa thuận đã ký kết với Campuchia và UNHCR để tiếp nhận những người thuộc sắc tộc thiểu số trở về từ Campuchia khi họ không được phép định cư ở một nước thứ 3.
Bảo vệ người tỵ nạn
Quy trình tiếp nhận đơn tỵ nạn: Luật không quy định việc tiếp nhận tỵ nạn và quy chế tỵ nạn và do đó chính phủ không thiết lập các định chế để bảo vệ người tỵ nạn.
Nước tạm dung cho người xin tỵ nạn: Chính phủ không có các quy định về việc bảo vệ chống lại trục xuất hay cưỡng bách hồi hương về lại nơi mà mạng sống và sự tự do của họ bị đe dọa vì lý do sắc tộc, tôn giáo, màu da, thành viên của một tổ chức xã hội hoặc chính trị. Chưa có một báo cáo nào về vấn đề này trong năm.
Người không tổ quốc:
Theo luật, chính quyền coi mọi người là công dân của đất nước nếu có ít nhất bố hoặc mẹ là người Việt Nam. Luật cũng có những điều khoản trong đó quy định một người không có bố mẹ là người Việt Nam, có thể trở thành công dân của nước Việt Nam, trong một điều kiện nhất định.
Nhóm người không tổ quốc nhiều nhất là nhóm có khoảng 10,000 người gốc Campuchia, theo số liệu thống kê của UNHCR. Những người này đã tìm cách nhập tịch Việt Nam từ những năm 1970 và họ bị từ chối không được trở về cố quốc bởi chính quyền Campuchia vì phía Campuchia cho rằng nhóm người này không có căn cứ để trở thành công dân của nước này.Đó là nhóm người Hoa thiểu số và người Việt Nam mà chính quyền cho ở trong bốn trại tỵ nạn ở trong và gần thành phố Hồ Chí Minh. Khi việc trợ giúp những trại này bị xóa bỏ năm 1994, khoảng 6 đến 7 nghìn người bỏ trại đi tìm việc làm ở Sài Gòn và các vùng lân cận. Khoảng 1,000-1,500 người ở lại bốn làng trước kia là trại tị nạn, nhưng họ và con cái của họ không bao giờ được hưởng các quyền như người Việt Nam, bao gồm cả quyền được sở hữu bất động sản, tiếp cận giáo dục và chăm sóc y tế.
Với sự cố gắng của chính phủ Việt Nam và UNHCR, 287 người trong số họ được công nhận là công dân Việt Nam trong năm 2010. Một báo cáo vào tháng 9 năm 2013 cho biết toàn bộ 2,357 người trong bốn làng đã được công nhận là dân địa phương. Hơn thế nữa, chính quyền đã làm việc với những người tỵ nạn Campuchia sống ở thành phố Hồ Chí Minh, và cuối năm 2012, 6,700 người được nhận quốc tịch Việt Nam. Theo ước tính của chính quyền, có khoảng 200 người đang chờ thủ tục để nhận quốc tịch.
Hội Phụ nữ, một tổ chức xã hội do đảng cộng sản kiểm soát, tiếp tục làm việc với chính phủ Hàn Quốc về môi giới hôn nhân và hỗ trợ tiền hôn nhân, bao gồm giáo dục và quy định về nhập tịch. Một số tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế cũng hỗ trợ.
Phần 3: Tôn trọng quyền chính trị: Quyền của công dân để thay đổi chính phủ
Hiến pháp không quy định quyền của công dân để thay đổi chính phủ một cách ôn hòa, và công dân không có quyền lựa chọn quan chức chính phủ.
Bầu cử và tham dự chính trị
Các cuộc bầu cử gần đây: Bầu cử gần đây nhất là vào năm 2010 để lựa chọn đại biểu quốc hội- không tự do cũng chẳng công bằng. Mặt trận Tổ quốc là cơ quan lựa chọn ứng cử viên. Tỷ lệ giữa “ứng cử viên độc lập” (là những người không có liên hệ với tổ chức nào) và các ứng cử viên khác thấp hơn lần bầu cử năm 2007. Đảng cho phép 15 ứng viên độc lập, những người không được chính phủ đứng đằng sau. Một số báo cáo cho biết quan chức đảng đã yêu cầu một số ứng viên độc lập rút lui và số khác bị coi là không hợp lệ.
Theo số liệu của chính phủ, hơn 99% người đủ điều kiện đi bầu cử đã tham gia bầu cử năm 2011, một con số quá cao theo các nhà quan sát quốc tế. (Một người có thể bầu cử cho nhiều người khác, và chính quyền coi là hợp lệ). Trong số 500 đại biểu quốc hội được bầu, có 458 là ứng viên của đảng cộng sản. Có 4 trong số 15 ứng cử viên độc lập trúng cử.
Quốc hội, mặc dù bị đảng khống chế (các vị trí lãnh đạo đều do quan chức cao cấp của đảng nắm giữ, và hơn 90% đại biểu là đảng viên), đang tìm cách hoạt động như một cơ quan lập pháp.
Ví dụ, theo một luật có hiệu lực từ 01/01, chủ tịch nước, thủ tướng, các thành viên chính phủ, chánh án toàn án tối cao, và chủ tịch quốc hội đều chịu sự bỏ phiếu tín nhiệm bởi quốc hội. Vào ngày 11/6, trong lần bỏ phiếu tín nhiệm đầu tiên, 160 đại biểu trong tổng số 500 đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm thấp cho thủ tướng, và một số quan chức cao cấp khác cũng nhận được sự tín nhiệm thấp. Nhiều nhà quan sát bình luận rằng sự tín nhiệm thấp phản ánh sự phê phán của dân chúng đối với đảng và chính phủ trong điều kiện không có sự lựa chọn “không tín nhiệm”.
Đảng chính trị: Hiến pháp quy định tất cả quyền lực chính trị thuộc về đảng cộng sản và Hiến pháp thừa nhận sự lãnh đạo của đảng. Bộ Chính trị là cơ quan tối cao quyết định mọi vấn đề của đất nước, mặc dù trên lý thuyết quyền này thuộc về Ban Chấp hành Trung ương đảng. Các phong trào chính trị đối lập và các đảng phái khác là bất hợp pháp.
Chính phủ tiếp tục hạn chế dân chúng bàn tán và chỉ trích nhà nước độc đảng. Ngược lại với những năm trước, chính phủ có thể cho phép một số chỉ trích nhà nước trong thời gian góp ý vào dự thảo Hiến pháp từ 01/01 đến 30/9. Một số nhóm và cá nhân kêu gọi xóa bỏ Điều 4 và cho phép dân chủ đa đảng.
Nhiều công dân đã gửi các kiến nghị về những chính sách của chính phủ. Thành viên của Nhóm 8406 và những nhóm hoạt động chính trị khác, những người kêu gọi đa đảng, tiếp tục bị sách nhiễu và tù đày.
Trong tháng 5, khoảng 70 cá nhân, bao gồm cựu tù chính trị Nguyễn Văn Đài, thành lập một tổ chức chính trị lấy tên là Hội Anh em Dân chủ để tiến hành các hoạt động dân chủ theo nhóm.
Trong tháng 8, truyền thông nhà nước thực hiện chiến dịch đánh phá Lê Hiếu Đằng, người có 45 năm tuổi đảng, sau khi ông tuyên bố thành lập Đảng Xã hội Dân chủ, một tổ chức chính trị mà ông gọi là đảng đối lập.
Sự tham dự của phụ nữ và người dân tộc thiểu số: Luật quy định sự bình đẳng về chính trị đối với phụ nữ và người dân tộc thiểu số. Có 122 đại biểu quốc hội (chiếm khoảng 24%) là phụ nữ, hai bộ trưởng là nữ trong tổng số 28 thành viên chính phủ, một phụ nữ là ủy viên Bộ Chính trị, nhưng không có phụ nữ nào là thành viên của Tòa án Nhân dân tối cao gồm 17 người.
Người dân tộc thiểu số có 78 ghế (khoảng 16%) trong Quốc hội.
Phần 4: Tham nhũng và Thiếu minh bạch của Chính phủ
Luật quy định tội hình sự cho việc tham nhũng của quan chức chính phủ, tuy nhiên, không phải lúc nào chính phủ cũng áp dụng luật một cách triệt để, và trong một số trường hợp, quan chức tham nhũng không bị truy tố.
Tham nhũng: Tham nhũng tiếp tục là vấn đề chính. Chính phủ luôn nói nỗ lực chống tham nhũng, bao gồm công bố ngân sách trung ương, thiết lập các biện pháp thanh tra, và đôi khi công bố rộng rãi một số cán bộ tham nhũng.
Luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi có hiệu lực từ 01/02. Nó cho phép công dân tố cáo về sự thiếu hiệu quả của chính quyền, những thủ tục hành chính rườm ra, tham nhũng và chính sách kinh tế, mặc dù chính phủ coi phê phán chính trị công khai là tội danh trừ phi chính quyền kiểm soát được. Do đó, luật không cho phép những công dân bị ảnh hưởng thành lập những tổ chức để hành động, và những cá nhân đứng đầu có thể bị bắt.
Tham nhũng gắn với sử dụng đất đai đã được phản ánh rộng rãi trên báo chí, trong nỗ lực gây áp lực cho các quan chức địa phương để giảm việc lạm quyền.
Tham nhũng trong lực lượng cảnh sát vẫn là một vấn đề nghiêm trọng ở tất cả các cấp, và nhiều cảnh sát được quyền miễn trừ. Lực lượng giám sát trong ngành công an có tồn tại nhưng lại bị ảnh hưởng bởi các lực lượng chính trị. Nhiều tổ chức nước ngoài tiến hành các đối thoại hàng năm về chống tham nhũng như một phần của chương trình trợ giúp chính phủ. Trước đó có các đối thoại tập trung vào hạn chế tham nhũng trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, và xây dựng.
Trong tháng 1, Đảng cộng sản tái lập Ban Nội chính trung ương nhằm đối phó với tham nhũng, do ông Nguyễn Bá Thanh, một chính trị gia Đà Nẵng đứng đầu.
Ngày 16/7, Tòa án Nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh kết án một nhóm cựu quan chức và lãnh đạo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) về tội vi phạm quy định về cho vay, tạo điều kiện cho một doanh nhân chiếm đoạt 112 tỷ đồng của ngân hàng. Đào Phương Thế, nguyên Trưởng phòng kế hoạch, và Huỳnh Trung Hiếu, nguyên cán bộ tín dụng của ngân hàng, bị 12 và 22 năm tù giam tương ứng trong khi Nguyễn Hữu Long, cựu phó giám đốc chi nhánh, bị kết án 10 năm sáu tháng tù giam.
Vào tháng 9, chính quyền thành phố HCM và đảng bộ địa phương đã kỷ luật lãnh đạo của bốn công ty dịch vụ về vi phạm kỷ luật lao động. Bốn cán bộ này tự cho mình mức lương 2.7 tỷ một năm. Lương trung bình của mỗi một giám đốc của bốn công ty này là 220 triệu/tháng so với mức lương trung bình 7.3 triệu đồng ở các công ty nhà nước.
Bảo vệ người tố giác: Luật không quy định việc bảo vệ những người tố cáo về các hành động vi phạm luật, lãng phí hoặc lừa dối, quản lý yếu kém, lạm dụng quyền hạn, hoặc gây hại cho sức khỏe và an toàn cộng đồng.
Kê khai tài chính: Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi yêu cầu quan chức cao cấp và các đại biểu quốc hội phải công khai thu nhập và tài sản cá nhân, và giải trình sự thay đổi tài sản hàng năm. Trước đây, chính quyền không công bố những công khai này cho công chúng. Thêm vào đó, lãnh đạo cơ quan có quyền yêu cầu nhân viên kê khai tài sản. Luật không có điều khoản trừng phạt việc không chấp hành việc kê khai tài chính, mặc dù Nghị định 78 quy định người vi phạm có thể bị khiển trách, cảnh cáo, đình chỉ, hoặc sa thải.
Tiếp cận thông tin của công chúng: Luật không cho phép công chúng được tiếp cận thông tin của chính phủ, và chính phủ thường không cung cấp thông tin cho dân chúng cũng như truyền thông nước ngoài. Tuân thủ theo luật, các báo chí chính thống thường đăng tải những văn bản luật trong các số báo hàng ngày nhưng không đăng tải các văn bản của đảng, các quyết định của Bộ Chính trị. Chính phủ và quốc hội có trang thông tin điện tử bằng cả hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh. Thêm nữa, việc tiếp cận các quyết định của Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao là có thể trong phần lớn thời gian, mặc dù đối các cá nhân rất khó tiếp cận thông tin của chính phủ.
Phần 5: Thái độ của chính phủ đối với việc các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ điều tra vi phạm nhân quyền
Chính phủ không cho phép việc thành lập và hoạt động của các tổ chức nhân quyền địa phương, tư nhân và cũng không cho phép các tổ chức và cá nhân có những bình luận công khai về thực thi nhân quyền. Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế sự phê phán ở trong nước về chính sách nhân quyền, bao gồm theo dõi, bắt bớ, truy tố và giam giữ, can thiệp vào sự liên lạc cá nhân, và hạn chế việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tụ họp.
Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế: Chính phủ nói cung cấm các công dân tiếp xúc với các tổ chức nhân quyền quốc tế, mặc dù một số nhà hoạt động vẫn làm. Chính phủ thường không cho phép các tổ chức nhân quyền phi chính phủ viếng thăm Việt Nam, mặc dù nó cho phép đại diện của các tổ chức UNHCR, báo chí, chính phủ nước ngoài, và các tổ chức phi chính phủ về phát triển và cứu trợ đi đến Tây Nguyên. Trong tháng 2, chính phủ cho phép quan chức cao cấp của Ân xá Quốc tế viếng thăm 6 ngày. Chính phủ cho phép quan chức Liên Hợp quốc đặc trách về quyền văn hóa thăm năm 2013, và mời quan chức đặc trách về tự do tôn giáo và đức tin thăm đất nước trong năm 2014. Chính phủ phản đối mạnh mẽ các thông cáo báo chí của các chính phủ nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ quốc tế về vi phạm nhân quyền và tôn giáo của Việt Nam.
Cơ quan nhân quyền của chính phủ: Việt Nam không có cơ quan, quan chức chuyên trách về nhân quyền hay ủy ban của quốc hội về vấn đề nhân quyền. Chính phủ đã tiếp tục đàm luận song phương về vấn đề nhân quyền với vài chính phủ ngoại quốc và tiến hành các buổi gặp gỡ, bao gồm cả những đối thoại hàng năm về nhân quyền.
Phần 6. Phân biệt đối xử, bất công xã hội, và buôn bán người
Pháp luật cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính, khuyết tật, ngôn ngữ, hoặc địa vị xã hội, nhưng việc thực hiện các quy định cấm phân biệt này không đồng đều, và luât pháp không đề cập đến phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hay giới tính.
Phụ nữ
Hiếp dâm và bạo lực gia đình: Luật pháp nghiêm cấm sử dụng hoặc đe dọa bạo lực đối với phụ nữ hoặc lợi dụng một người không thể hành động tự vệ. Pháp luật cũng hình sự hóa tội hiếp dâm, trong đó có hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng. Người hiếp dâm có thể chịu từ 2 đến 7 năm tù giam. Trong trường hợp nghiêm trọng của tội hiếp dâm, bao gồm hiếp dâm có tổ chức, tội phạm, hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho nạn nhân, có thể bị từ 7 đến 15 năm tù. Theo báo cáo thì nhà chức trách đã khởi tố toàn bộ các vụ án hiếp dâm, nhưng chính phủ không công bố thống kê các vụ bắt giữ, truy tố, kết án hay trừng phạt.
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã trở nên phổ biến. Một báo cáo đặc biệt của LHQ năm 2010 phát hiện ra rằng 58 phần trăm phụ nữ có chồng đã từng là nạn nhân của bạo lực thân thể, tình dục, hoặc tình cảm. Cơ quan chức năng xử lý các trường hợp bạo lực gia đình trong phạm vi quan hệ dân sự, trừ khi nạn nhân bị thương lên đến hơn 11 phần trăm cơ thể. Pháp luật quy định cụ thể hành vi cấu thành bạo lực gia đình, phân công trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan chính phủ và các bộ ngành khác nhau, và quy định hình phạt cho kẻ phạm tội khác nhau, từ cảnh cáo và quản chế cho đến ba tháng hoặc ba năm tù giam. Các tổ chức phi chính phủ và những người ủng hộ cho rằng có nhiều quy định yếu kém, và chính phủ đã không có thống kê các vụ bắt giữ, truy tố, kết án, hay trừng phạt. Các quan chức thừa nhận bạo lực gia đình là mối quan tâm lớn của xã hội, và trong năm các phương tiện truyền thông bàn luận rộng mở về chủ đề này.
Trong tình hình cảnh sát và hệ thống pháp luật nói chung vẫn không được trang bị để đối phó với trường hợp bạo lực gia đình, chính phủ với sự giúp đỡ của các tổ chức NGO quốc tế và trong nước đang tiếp tục đào tạo cảnh sát, luật sư, và các quan chức về hệ thống pháp luật.
Theo một báo cáo vào tháng Hội Phụ nữ Việt Nam TƯ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan chức năng ghi nhận 178.847 trường hợp bạo lực gia đình từ năm 2009 đến giữa năm 2012, trong đó có hơn 16.000 trường hợp liên quan đến những người lớn tuổi và 23.300 liên quan đến trẻ em, phần còn lại đa số là liên quan đến các cặp vợ chồng, chủ yếu là người vợ.
Một số tổ chức NGO trong nước và quốc tế làm việc để giải quyết nạn bạo lực gia đình. Các tổ chức phi chính phủ trong nước mở đường dây nóng cho các nạn nhân ở các thành phố lớn. Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, được hỗ trợ bởi Hội Phụ nữ, cũng điều hành một đường dây nóng trên toàn quốc, mặc dù không được quảng bá rộng rãi trong khu vực nông thôn. Mặc dù khu vực nông thôn thường thiếu nguồn lực tài chính để hình thành các trung tâm hỗ trợ khủng hoảng và đường dây nóng, một bộ luật thiết lập “khu dân cư đáng tin cậy” cho phép các phụ nữ tiếp cận gia đình khác trong khi chính quyền địa phương và lãnh đạo cộng đồng cố gắng đối phó với kẻ bạo hành và giải quyết khiếu nại. Có 300 hộ dân như vậy trong nước, tất cả được xây dựng thông qua Hội Phụ nữ ở cấp xã. Nhiều phụ nữ vẫn còn trong tình trạng bị lạm dụng trong quan hệ hôn nhân để khỏi phải đối mặt với sự kỳ thị xã hội và gia đình cũng như bất ổn về kinh tế.
Chính phủ, với sự giúp đỡ của các tổ chức NGO quốc tế, tiếp tục hỗ trợ các hội thảo và chuyên đề nhằm mục đích giáo dục phụ nữ và nam giới về bạo lực gia đình và quyền của phụ nữ nói chung và nhấn mạnh vấn đề thông qua các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng. Các tổ chức phi chính phủ địa phương liên kết với Hội Phụ nữ vẫn gắn kết về các mối quan tâm về phụ nữ, đặc biệt là bạo lực đối với phụ nữ và buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Quấy rối tình dục: Không có luật cấm quấy rối tình dục của người lớn, và không có luật bảo vệ người lao động bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc, cho dù pháp luật cấm người sử dụng lao động phân biệt đối xử đối với lao động nữ hay xúc phạm nhân phẩm và danh dự của họ. Một bộ luật lao động đang nghiêm cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Các ấn phẩm và đào tạo về quy định đạo đức cho nhân viên chính phủ và các công chức khác không đề cập đến vấn đề này, mặc dù nó tồn tại.
Các nạn nhân bị quấy rối tình dục có thể liên hệ với tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ để yêu cầu tham gia. Các nạn nhân tiếp cận với một đại diện công đoàn lao động có quyền khiếu nại với cán bộ công đoàn. Trong trường hợp nghiêm trọng, nạn nhân có thể kiện người phạm tội theo một điều khoản đối phó với việc “làm nhục người khác” và hình phạt cụ thể bao gồm cảnh cáo, cải tạo cho đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Tuy nhiên, không có truy tố hoặc kiện cáo về quấy rối tình dục trong năm, và hầu hết các nạn nhân đều không muốn tố cáo người phạm tội công khai.
Quyền sinh sản: Hiến pháp buộc xã hội, gia đình, và tất cả các công dân thực hiện “chương trình kế hoạch hóa dân số và gia đình.” Luật pháp khẳng định quyền của cá nhân lựa chọn biện pháp tránh thai, tiếp cận với chẩn đoán phụ khoa, điều trị và kiểm tra sức khỏe khi mang thai, và có được các dịch vụ y tế khi sinh con tại cơ sở y tế, và chính phủ thường thực thi các quy định này. Tuy nhiên, phụ nữ chưa lập gia đình tại độ tuổi sinh đẻ tiếp tục bị tiếp cận hạn chế hoặc không được tiếp cận các biện pháp tránh thai có trợ cấp do thiếu hụt phương tiện mà chính phủ vốn đã phê duyệt. Sự kỳ thị xã hội đối với phụ nữ chưa lập gia đình mà tìm biện pháp tránh thai tiếp tục làm hạn chế việc tiếp cận các biện pháp tránh thai. Chính phủ phân bổ nguồn lực bổ sung cho các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình năm 2010 với mục tiêu tăng tỉ lệ ngừa thai đến 80 phần trăm vào năm 2015.
Chiến lược Dân số và Sức khỏe Sinh sản cho 2011-20 áp dụng cho tất cả các công dân và phấn đấu để duy trì số con trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản là 1,8. Chính phủ, chủ yếu thông qua các chiến dịch truyền thông rộng rãi, duy trì khuyến khích mạnh mẽ kế hoạch hóa gia đình. Một nghị định được Bộ Chính trị ban hành khiển trách đảng viên Đảng Cộng sản nếu họ có ba con, giáng chức nếu họ có bốn người con, và trục xuất khỏi Đảng nếu họ có năm người con. Vi phạm các nghị định cũng tăng khả năng chấm dứt việc làm và giảm khả năng thăng tiến.
Phân biệt đối xử: Pháp luật quy định về bình đẳng giới trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống, nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục phải đối mặt với sự kỳ thị của xã hội. Mặc dù phần lớn pháp luật và các quy định là nhằm để bảo vệ quyền phụ nữ trong hôn nhân và công việc, ngay cả quy định ưu tiên, nhưng phụ nữ luôn luôn không nhận được đối xử bình đẳng. Họ tiếp tục bị phân biệt đối xử vì họ không được phép làm việc trong tất cả các ngành công nghiệp và giờ giấc làm việc giống như nam giới (do mang thai hoặc cho con bú). Hơn nữa, không có luật cấm người sử dụng lao động hỏi han về tình trạng gia đình trong phỏng vấn việc làm. Phụ nữ dự kiến sẽ nghỉ hưu ở tuổi 55, so với tuổi 60 đối với nam giới.
Mặc dù pháp luật quy định về quyền thừa kế bình đẳng cho nam giới và phụ nữ, phụ nữ tiếp tục phải đối mặt với sự phân biệt văn hóa: Một người con trai có nhiều khả năng thừa kế tài sản hơn một người con gái, trừ trường hợp quy định bằng văn bản pháp lý. Một nghiên cứu, được tài trợ bởi Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc năm 2012 (UNDP), về quyền sử dụng đất đã kết luận rằng pháp luật và quan niệm văn hóa hạn chế phụ nữ tiếp cận với quyền sở hữu đất và thừa kế. Pháp luật cũng cấm tuyển dụng lao động với kỳ thị dựa trên cơ sở giới tính. Trong khi đó các tổ chức NGO cho rằng đã có xảy ra tình trạng phân biệt đối xử, nhưng các cáo buộc này khó có thể chứng minh.
Hội Phụ nữ và Ủy ban Quốc gia của chính phủ vì sự Tiến bộ của phụ nữ tiếp tục thúc đẩy quyền của phụ nữ, bao gồm cả bình đẳng về chính trị, kinh tế và pháp lý, và bảo vệ khỏi nạn lạm dụng trong quan hệ vợ chồng. Hội Phụ nữ cũng mở các chương trình hổ trợ tài chính tiêu dùng nhỏ và các chương trình khác để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Kế hoạch Chiến lược quốc gia của chính phủ về Bình đẳng giới 2011-2020 khẳng định rằng bình đẳng thực chất giữa nam và nữ cần được thể hiện qua việc cung cấp cơ hội, sự tham gia và các lợi ích trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đóng góp cho sự phát triển nhanh mà bền vững của đất nước.
Trong một cuộc hội thảo tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng Tám xem xét việc thực hiện 30 năm Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ và thảo luận về các biện pháp khác liên quan đến bình đẳng giới và quyền của phụ nữ, Ủy ban Quốc hội về các vấn đề xã hội báo cáo rằng phụ nữ chiếm 48 phần trăm trong xấp xỉ 1,5 triệu người lao động. Luật pháp yêu cầu trả lương như nhau cho công việc giống nhau, nhưng nhiều phụ nữ phàn nàn về việc nhận được mức lương thấp hơn so với nam giới.
Lựa chọn Trên Cơ sở Giới tính: Theo UNDP, tỷ lệ giới tính quốc gia trung bình nam nữ khi sinh vào năm 2012 là 112.3-100. Tỷ lệ mất cân bằng của các bé trai sơ sinh với các bé gái tiếp tục tăng trong năm, đặc biệt là ở một số khu vực giàu có của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ thừa nhận các vấn đề (giảm tỷ lệ là một mục tiêu được đánh dấu trong Chương trình Quốc gia về Bình đẳng giới) và tiếp tục thực hiện các bước để giải quyết vấn đề này. Bộ Y tế đã nhận được nguồn vốn bổ sung và nguồn lực để giải quyết sự mất cân bằng.
Trẻ Em
Đăng ký khai sinh: Theo luật, chính phủ xem bất cứ ai là công dân Việt Nam nếu có bố hoặc mẹ là công dân Việt Nam, mặc dù người sinh ra bởi cha mẹ không phải là công dân Việt Nam cũng có thể có quốc tịch trong những trường hợp nhất định. Không phải tất cả các ca sinh đẻ nào cũng được đăng ký ngay, theo báo cáo nguyên nhân là do thiếu sự khích lệ hoặc kiến thức trong dân chúng. Giấy khai sinh là cần thiết cho các dịch vụ công như giáo dục và chăm sóc sức khỏe, và một số phụ huynh đặc biệt là phụ huynh tại đồng bào dân tộc thiểu số lựa chọn không đăng ký khai sinh, gây ảnh hưởng đến khả năng đăng kí học tại các trường học và chăm sóc sức khỏe được chính phủ tài trợ.
Giáo dục: Giáo dục bắt buộc, miễn phí, và phổ quát đến năm 14 tuổi. Tuy nhiên, các cán bộ đã luôn luôn không thực hiện yêu cầu, hoặc thi hành bình đằng giữa nam và nữ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà ngân sách chính phủ và gia đình cho giáo dục còn hạn chế và vai trò đóng góp lao động của trẻ nhỏ có giá trị với ngành nông nghiệp.
Lạm dụng trẻ em: Liên Hợp Quốc và Tổng cục Thống kê báo cáo trong năm 2011 rằng 25 phần trăm trẻ em là nạn nhân của lạm dụng, như được chỉ ra bởi mẹ của các em này trong một nghiên cứu vào năm 2006 về bạo lực trong nước. Theo báo cáo của một tờ báo, các Bộ Công an, Bộ Lao động , Bộ Thương binh và Xã hội (MOLISA) báo cáo vào tháng 5 năm 2012 có khoảng 1.000 trẻ em bị lạm dụng tình dục mỗi năm. Các tổ chức phi chính phủ ghi nhận những khó khăn trong việc thu thập dữ liệu chính xác về tỷ lệ lạm dụng tình dục trẻ em và trẻ vị thành niên, trong đó chỉ ra khả năng các vụ lạm dụng được báo cáo thiếu đầy đủ. Chính phủ đã không có thông tin về mức độ của vấn đề hoặc những nỗ lực để chống lại nó.
Cưỡng bức và kết hôn sớm: Tuổi tối thiểu hợp pháp của hôn nhân là 18 đối với nữ giới và 20 với nam giới, và pháp luật hình sự hóa việc sắp đặt hôn nhân hay kết hôn với một người vị thành niên. Hình phạt với việc sắp đặt hôn nhân trước tuổi từ xử phạt hành chính tới tù từ ba tháng đến hai năm. Tỷ lệ hôn nhân dưới 18 tuổi vào khoảng 16 phần trăm ở vùng Tây Bắc và khoảng 11 phần trăm ở Tây Nguyên – ở cả các vùng nghèo và khu vực nông thôn – theo điều tra dân số năm 2009, nhưng không có số liệu mở rộng của chính phủ. Chính quyền địa phương và Hội Phụ nữ chịu trách nhiệm phổ biến nâng cao nhận thức về hậu quả của hôn nhân trước tuổi.
Lạm dụng tình dục trẻ em: Quấy rối tình dục trẻ em dưới 16 tuổi là bất hợp pháp. Pháp luật hình sự hóa tất cả các hành vi mua bán, trao đổi, hoặc kiểm soát trẻ em cũng như tất cả các hành vi liên quan đến mại dâm trẻ em và lao động trẻ em cưỡng bức. Phạt tù từ ba năm đến tù chung thân, và tiền phạt từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng ($237 đến $2,370). Pháp luật cũng quy định hình phạt tù đối với hành vi liên quan đến mại dâm trẻ em, trong đó có chứa chấp mại dâm (12-20 tuổi), môi giới mại dâm (bảy đến 15 năm), và mua dâm trẻ vị thành niên (ba đến 15 năm). Tương tự như vậy, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi đối xử tàn ác, làm nhục, bắt cóc, mua bán, và ép buộc trẻ em vào các hoạt động có hại cho sự phát triển sức khỏe và cung cấp việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Tuổi tối thiểu của quan hệ tình dục đồng thuận là 18. Quan hệ tình dục với người chưa đủ tuổi 18 là bất hợp pháp và có thể dẫn đến tù chung thân hoặc tử hình. Hình phạt đối với quan hệ tình dục với trẻ vị thành niên ở độ tuổi từ 16 và 18, tùy thuộc vào hoàn cảnh, thay đổi từ 5 đến 10 năm tù giam. Chính phủ thực thi pháp luật, và kết án người hiếp dâm với bản án khắc nghiệt. Sản xuất, phân phối, phổ biến, hoặc bán nội dung khiêu dâm trẻ em là bất hợp pháp và có thể bị phạt từ 3 đến 10 năm tù giam.
Các quan chức công khai nêu ra một xu hướng đang tăng trong việc khai thác tình dục trẻ em. Một nghiên cứu năm 2011 của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tiến hành kết hợp với Bộ LĐTB & XH cho thấy trẻ em ở độ tuổi 12 làm mại dâm, với lứa tuổi phổ biến nhất thấy được là 14 đến 15 tuổi. Một số trẻ vị thành niên tham gia vào tệ nạn mại dâm vì lý do kinh tế. Phát hiện này cũng nhấn mạnh số lượng gia tăng của các bé trai ở độ tuổi dưới 16 tham gia vào tệ nạn mại dâm. UNICEF và các tổ chức địa phương nói rằng chính quyền địa phương báo cáo thiếu đầy đủ tính nghiêm trọng thực tế xảy ra của mại dâm trẻ em.
Trẻ em đường phố: Các tổ chức phi chính phủ độc lập ước tính rằng 23,000-25,000 trẻ em sống trên đường phố và đôi khi đã bị lạm dụng hoặc bị sách nhiễu bởi công an.
Bảo trợ Trẻ em vô thừa nhận: Chính phủ phân bổ 1,25 nghìn tỷ đồng (59.200.000 $) cho Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-20 và tập trung vào việc hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi ở 12 tỉnh nghèo nhất.
Bắt cóc Trẻ em Quốc tế: Việt Nam không phải là một thành viên của Công ước La Hay 1980 về các khía cạnh Dân sự của Bắt cóc Trẻ em Quốc tế.
Chống Do Thái
Có một cộng đồng Do Thái nhỏ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, và không có báo cáo về hành vi chống người Do Thái.
Buôn bán người
Xem Báo cáo của Phòng phụ trách buôn bán người tại www.state.gov/j/tip/ .
Người khuyết tật
Hiến pháp quy định về bảo vệ người khuyết tật. Pháp luật cấm phân biệt đối xử, ngược đãi người khuyết tật về thể chất và tinh thần, khuyến khích người khuyết tật lao động, và đòi hỏi sự bình đẳng cho họ về chỗ ở, tiếp cận giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, phương tiện vận chuyển trong địa phương, và đào tạo nghề. Không có quy định tương tự liên quan đến người khuyết tật các giác quan hoặc trí tuệ.
Các dịch vụ cung cấp cho người khuyết tật, mặc dù hạn chế vẫn được cải thiện trong năm. Bộ Giao thông vận tải đã triển khai xây dựng bộ luật về các tiện ích công cộng dành cho người khuyết tật, tiếp tục đào tạo cán bộ cơ quan giao thông vận tải và các sinh viên về việc sử dụng hệ thống này, và phát triển các tài liệu đào tạo cho tài xế xe buýt để hỗ trợ các cá nhân lên và xuống xe buýt. Chính phủ cũng giảm giá vé xe buýt cho 33.000 người khuyết tật tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Luật pháp yêu cầu xây dựng và cải tạo rộng lớn đối các công trình công cộng lớn để cho cả người khuyết tật tiếp cận, nhưng việc thực hiện tiếp diễn không thường xuyên. Các tòa nhà mới và các cơ sở tại các đô thị lớn đã được xây dựng với đường dốc và dễ vào. Trong năm, Bộ Xây dựng duy trì các đơn vị thi hành tại các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Phòng, Ninh Bình nhằm thực hiện bộ luật không gây cản trở và cung cấp các buổi đào tạo về luật xây dựng cho các thanh tra và các công ty kiến trúc tại hơn 22 tỉnh.
Tiếp cận giáo dục cho trẻ em khuyết tật, bao gồm mù, điếc, và bị hạn chế về vận động, vẫn rất bị hạn chế. Không có thông tin về sự tham gia của trẻ em khuyết tật tại các trường tiểu học, trung học, và giáo dục đại học.
Pháp luật quy định ưu đãi cho các công ty tuyển dụng người khuyết tật và phạt những công ty không đáp ứng hạn ngạch tối thiểu dành 2 đến 3 phần trăm các vị trí trong công ty cho người lao động khuyết tật, nhưng chính phủ thực thi các quy định này không đồng đều. Các công ty có một lực lượng lao động bao gồm ít nhất 51% nhân viên là người khuyết tật có thể hội đủ điều kiện cho các khoản vay trợ cấp đặc biệt của chính phủ.
Chính phủ hỗ trợ người khuyết tật bỏ phiếu trong năm 2011 bằng cách đưa thùng phiếu đến nhà của cá nhân không thể đi đến phòng bỏ phiếu. Không có hạn chế của pháp luật về quyền bầu cử cho người khuyết tật, mặc dù nhiều điểm bỏ phiếu người khuyết tật không thể tiếp cận, đặc biệt là người khuyết tật về vận động.
Chính phủ hỗ trợ thành lập tổ chức trợ giúp người khuyết tật và tư vấn cho họ việc phát triển hoặc đánh giá các chương trình quốc gia, chẳng hạn như các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, pháp luật nghề nghiệp và các chính sách giáo dục khác nhau. Ủy ban điều phối quốc gia về người tàn tật và các thành viên từ các bộ tiếp tục làm việc với các tổ chức trong và ngoài nước để cung cấp bảo vệ, hỗ trợ, tiếp cận vật chất, giáo dục và việc làm. Chính phủ điều hành một mạng lưới nhỏ các trung tâm phục hồi chức năng để cung cấp vật lý trị liệu bệnh nhân dài hạn. Một số tỉnh, các cơ quan chính phủ, các trường đại học có chương trình cụ thể cho người khuyết tật.
Các Nhóm Thiểu số Kiều dân/Chủng tộc/dân tộc
Pháp luật cấm phân biệt đối xử chống lại dân tộc thiểu số, nhưng không có thông tin về các biện pháp thực thi của chính phủ. Phân biệt đối xử của xã hội đối với dân tộc thiểu số đã có từ lâu và dai dẳng. Các quan chức địa phương ở một số tỉnh, đặc biệt là ở các vùng cao, hành động trái với luật pháp quốc gia về phân biệt đối xử đối với các nhóm dân tộc và tôn giáo thiểu số. Dù cho sự tăng trưởng kinh tế đáng kể của đất nước, một số cộng đồng dân tộc thiểu số được hưởng lợi rất ít từ điều kiện kinh tế được cải thiện, dù cho thành viên trong nhóm dân tộc thiểu số tạo lên một phần lớn dân số trong khu vực nhất định, bao gồm cả vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và các phần của đồng bằng sông Cửu Long.
Một số thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số tiếp tục di chuyển đến Campuchia và Thái Lan. Mặc dù có báo cáo một số đi du lịch để tìm kiếm cơ hội kinh tế lớn hơn hoặc tìm đường tắt để định cư ở các nước khác, những người khác rời vì điều kiện chính trị địa phương và bị quấy rối, bao gồm quấy rối bắt nguồn từ niềm tin tôn giáo. Chính phủ gia tăng các biện pháp an ninh ở miền Trung và Tây Bắc của Tây Nguyên vì lo ngại các tuyên bố hoạt động ly khai dân tộc thiểu số. Chính phủ cũng tiếp tục theo dõi các nhóm thiểu số vùng cao rất chặt chẽ, đặc biệt là một số nhóm dân tộc ở miền Trung và Tây Bắc Tây Nguyên, nơi tiếp tục đòi hỏi thực hành tín ngưỡng thiểu số theo hướng ly khai. Tiếp tục có báo cáo rằng các cá nhân dân tộc thiểu số gọi điện thoại cho các thành viên của cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ngoài là mục tiêu đặc biệt chú ý của cảnh sát. Trong năm, cơ quan chức năng bắt giữ và/hoặc kết án một số cá nhân bị cáo buộc kết nối với các tổ chức ở nước ngoài mà chính phủ cho rằng đi theo con đường ly khai và kết án tù dài hạn họ. Ngoài ra, sự hiện diện an ninh gia tăng đã được báo cáo xung quanh những dịp nhạy cảm và các ngày lễ trong khu vực. Tiếp tục có báo cáo rằng cảnh sát Việt Nam hoạt động trên cả hai phía biên giới nhằm đem các thành viên của dân tộc thiểu số tìm cách vào Campuchia trở lại và đôi khi đánh đập và giam giữ họ.
Trong tháng Năm giới chức đã bắt giữ bốn nhà hoạt động người Khmer Krom ở Sóc Trăng vì “chạy trốn ra nước ngoài để hoạt động chống lại chính phủ Việt Nam” và “tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”, cũng như vì mối lien hệ của họ với Liên đoàn người Khmer Krom Kampuchea. Vào tháng Chín một tòa án kết án một trong bốn người này từ hai và sáu năm tù giam.
Chính phủ tiếp tục cố gắng để giải quyết nguyên nhân của sự bất mãn của dân tộc thiểu số thông qua các chương trình đặc biệt cải thiện cơ sở giáo dục và y tế và mở rộng tiếp cận đường xá và điện khí hóa nông thôn và làng xã. Chính phủ cũng tiếp tục giao đất cho các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thông qua một chương trình đặc biệt, nhưng có tiếp tục khiếu nại rằng việc thực hiện không đồng đều.
Pháp luật quy định về phổ cập giáo dục cho trẻ em không phân biệt tôn giáo hay sắc tộc, và các thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số không phải trả học phí thường lệ. Chính phủ điều hành các trường học đặc biệt dành cho trẻ em dân tộc thiểu số, và đã có 292 trường nội trú tại 50 tỉnh, chủ yếu là ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có cấp 2 và cấp 3, cùng với các chương trình học đặc biệt ở chính quy và dự bị cũng như học bổng và tuyển sinh ưu đãi ở cấp đại học. Chính phủ cũng đã làm việc với các quan chức địa phương để phát triển chương trình giảng dạy ngôn ngữ địa phương, nhưng dường như việc thực hiện chương trình này toàn diện hơn ở Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, và chỉ thực hiện trong khu vực giới hạn của Tây Tây Bắc. Trong năm cũng có một vài trường kỹ thuật và dạy nghề được chính phủ trợ cấp cho người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, có một số trường hợp bị phân biệt đối xử trong giáo dục đối với dân tộc thiểu số.
Chính phủ phát sóng chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số ở một số vùng. Chính phủ cũng chỉ đạo dân tộc đa số (dân tộc Kinh) các quan chức để học ngôn ngữ của địa phương mà họ làm việc. Chính quyền địa phương tiếp tục sáng kiến để tăng việc làm, giảm khoảng cách thu nhập giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh, và làm cho các quan chức nhạy bén và tiếp thu nền văn hóa và truyền thống dân tộc thiểu số.
Chính phủ cấp ưu đãi cho các công ty trong nước và nước ngoài đầu tư vào vùng cao dân cư chủ yếu là người dân tộc thiểu số. Chính phủ cũng duy trì các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nhắm vào người nghèo, khu vực chủ yếu là dân tộc thiểu số và thiết lập các chương trình khuyến nông cho các vùng nông thôn xa xôi.
Hội đồng Dân tộc thiểu số của Quốc hội, cùng với ủy ban quản lý dân tộc thiểu số của tỉnh, tiếp tục hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và giải quyết một số vấn đề liên quan đến xóa đói giảm nghèo và tăng tỷ lệ biết chữ trong năm.
Bất công xã hội, Phân biệt đối xử, và Hành vi bạo lực Căn cứ vào xu hướng tình dục và Giới tính
Luật pháp không giải quyết phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hay giới tính. Không có báo cáo chính thức phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hay giới tính, nhưng phân biệt đối xử trong xã hội và sự kỳ thị vẫn còn phổ biến.
Không có pháp luật hình sự hóa việc đồng thuận quan hệ tình dục đồng tính, mặc dù theo nghị định các cá nhân có thể không thay đổi giới tính.
Trong tháng Năm, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, một tổ chức phi lợi nhuận làm việc cho quyền của các nhóm thiểu số, phát hành số liệu thống kê báo cáo khoảng 1,65 triệu cá nhân trong nước được xác định là LGBT (đồng tính luyến ái nữ-nữ hay nam-nam, hai hệ, chuyển giới). Vào tháng Tám khoảng 200 nhà hoạt động đã tham gia “Việt Pride 2013,” một cuộc diễu hành niềm tự hào đồng tính ở Hà Nội.
Trong tháng mười một Quốc hội đã thông qua sửa đổi luật pháp qua đó sẽ đảm bảo cho các cặp vợ chồng đồng tính sự bảo vệ tài sản, hợp đồng, và quyền làm cha mẹ đối với con cái sau khi ly dị cho các cặp vợ chồng khác giới.
Bạo lực xã hội hoặc Phân biệt đối xử khác
Luật pháp quy định rằng nhà tuyển dụng không được thôi việc các cá nhân bị HIV/AIDS và các bác sĩ không thể từ chối điều trị người nhiễm HIV/AIDS. Không có bằng chứng chính thức phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS và không có báo cáo về việc từ chối điều trị y tế.
Phân biệt đối xử của xã hội, tuy nhiên, đã tồn tại. Các cá nhân dương tính với HIV được báo cáo bị xã hội kỳ thị, mất việc làm, và bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc hoặc trong việc tìm kiếm nhà ở, mặc dù số lượng các báo cáo này giảm trong năm. Với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nước ngoài, các cơ quan trung ương và tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp, mặc dù không nhất quán, điều trị, hỗ trợ, và cung cấp nơi ở cho người bị HIV/AIDS và do đó làm giảm sự kỳ thị xã hội và phân biệt đối xử. Tổ chức từ thiện tôn giáo đôi khi có thể cung cấp các dịch vụ chăm sóc tại nhà và phòng chống HIV cho người có hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chính phủ báo cáo trong năm 2012 có khoảng 5.100 trẻ em ở tuổi đi học bị HIV/AIDS. Trong một số trường hợp, áp lực từ phụ huynh cấm trẻ em dương tính với HIV/AIDS hoặc trẻ mồ côi đến trường học.
Phần 7. Quyền Công nhân
a. Tự do Hiệp hội và quyền được Thương lượng Tập thể
Pháp luật không cho phép công nhân tổ chức và tham gia công đoàn độc lập theo sự lựa chọn. Trong khi công nhân có thể chọn để tham gia công đoàn và ở cấp nào (địa phương, tỉnh , hoặc quốc gia) họ muốn tham gia, mỗi công đoàn phải đăng ký với tổ chức công đoàn lao động duy nhất của đất nước, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (Tổng LĐLĐ), để được công nhận về mặt pháp lý. Tổng LĐLĐ, một tổ chức công đoàn được điều khiển bởi Đảng Cộng sản, phê duyệt và quản lý một loạt các liên đoàn lao động tại các công ty con được tổ chức theo vùng và ngành công nghiệp.
Vào tháng Một, Đạo Luật Công đoàn sửa đổi bắt đầu có hiệu lực. Trong số các quy định khác, đạo luật đã loại bỏ yêu cầu rằng các doanh nghiệp với hơn 20 công nhân phải thành lập một tổ chức công đoàn trong vòng sáu tháng. Trong khi đạo luật này bắt công đoàn doanh nghiệp chịu trách nhiệm “phổ biến thông tin để thuyết phục và hướng dẫn người lao động thành lập và/hoặc tham gia công đoàn,” còn Tổng LĐLĐ có thể bây giờ chỉ đại diện cho người lao động trong các doanh nghiệp không có công đoàn nơi mà các công nhân yêu cầu phải có công đoàn. Cả đạo luật và các luật lệ liên quan đều không xác định tiến trình để người lao động yêu cầu người đại diện cho họ, hoặc số lượng tối thiểu của người lao động cần thiết để thực hiện điều đó.
Theo đạo luật, Tổng LĐLĐ cũng có trách nhiệm giáo dục công nhân về quyền và nghĩa vụ của mình, đại diện cho người lao động (gọi là “lao động tập thể”) trong thương lượng tập thể và tranh chấp với lao động cá nhân; tổ chức và lãnh đạo các cuộc đình công hợp pháp, và làm việc với các cơ quan nhà nước về quan hệ lao động, sức khỏe và an toàn nghề nghiệp, và các vấn đề khác. Tổng LĐLĐ không còn cần thiết tập trung vào việc thiết lập “công đoàn cơ sở.” Phí công đoàn là bắt buộc theo luật đối với các thành viên công đoàn và người sử dụng lao động trong và ngoài nước. Trong nỗ lực để nâng cao trách nhiệm với phí công đoàn, điều luật nêu rõ việc sử dụng hợp lý phí công đoàn bắt buộc đối với các thành viên công đoàn và người sử dụng lao trong và ngoài nước. Điều luật cũng loại bỏ quy định tên Tổng LĐLĐ là thực thể duy nhất để quản lý tài chính của toàn bộ hệ thống công đoàn.
Pháp luật quy định các công đoàn trực thuộc Tổng LĐLĐ – có quyền thương lượng tập thể đại diện cho người lao động. Tranh chấp lao động tập thể về quyền phải thông qua Hội đồng hoà giải, và nếu hội đồng không thể giải quyết vấn đề này, sẽ đưa lên chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trong tháng Năm, Bộ luật Lao động sửa đổi có hiệu lực. Bộ luật cho phép tổ chức công đoàn và các tổ chức sử dụng lao động tạo điều kiện và hỗ trợ thương lượng tập thể và yêu cầu các công ty thiết lập một cơ chế để cho phép quản lý và lực lượng lao động để trao đổi thông tin và tham khảo ý kiến về các chủ đề có ảnh hưởng đến điều kiện làm việc. Bộ luật này cũng bảo vệ việc “cho thuê lại lao động” là một mô hình mới về việc làm, cộng thêm việc bảo vệ công nhân bán thời gian và nội địa.
Pháp luật cho phép đình công trong các trường hợp quy định nhất định và quy định một quá trình hòa giải và phân xử rộng lớn và cồng kềnh trước khi một cuộc đình công hợp pháp có thể xảy ra. Pháp luật cấm đình công trong các doanh nghiệp phục vụ công cộng hoặc những nơi mà chính phủ cho là thiết yếu đối với nền kinh tế và quốc phòng đất nước, định nghĩa đình công trong các doanh nghiệp sản xuất điện, bưu chính viễn thông; vận tải biển và vận tải hàng không, hàng hải và quản lý; công trình công cộng; và dầu khí. Pháp luật định nghĩa “dịch vụ thiết yếu” rộng hơn tiêu chuẩn quốc tế. Pháp luật cũng cho phép Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ một cuộc đình công được coi là gây bất lợi cho nền kinh tế quốc gia, an toàn công cộng.
Các cuộc đình công mà không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể hoặc không tuân thủ các quy trình vạch ra bởi pháp luật là bất hợp pháp. Trước khi người lao động có thể tổ chức một cuộc đình công, họ phải đưa yêu cầu của mình qua một quá trình liên quan đến Hội đồng hoà giải (hoặc hoà giải viên lao động cấp huyện nơi không có sự xuất hiện của công đoàn). Nếu hai bên không thể đạt được hòa giải, công đoàn phải gửi yêu cầu đến một Hội đồng phân xử cấp tỉnh. Công đoàn (hoặc đại diện của người lao động tại nơi không có công đoàn hiện diện) có quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài cấp tỉnh đến tòa án nhân dân cấp tỉnh cùng với việc đình công. Pháp luật cũng quy định rằng những người đình công không được trả lương trong khi họ không làm việc. Luật pháp nghiêm cấm trả thù người đình công. Theo luật, các cá nhân tham gia cuộc đình công bị tuyên bố bất hợp pháp bởi Toà án nhân dân và phát hiện đã gây thiệt hại cho người thuê lao động phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các công nhân có thể đưa trường hợp của họ trực tiếp lên hệ thống tòa án nhân dân, nhưng trong nhiều trường hợp họ có thể làm như vậy chỉ sau khi đã cố gắng hoà giải và thất bại.
Các lãnh đạo Tổng Liên đoàn ảnh hưởng các quyết định quan trọng bằng việc soạn thảo, sửa đổi, hoặc cho ý kiến về pháp luật lao động, phát triển mạng lưới an sinh xã hội và thiết lập tiêu chuẩn sức khỏe, an toàn và mức lương tối thiểu. Các nhà hoạt động lao động và đại diện (không phải của Tổng LĐLĐ) của các tổ chức công nhân phải đối mặt với sự kỳ thị.
Tổng LĐLĐ báo cáo rằng có 178 cuộc đình công từ tháng giêng đến tháng năm. Ước tính có khoảng 71 phần trăm của các cuộc đình công xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (chủ yếu là các công ty Hàn Quốc và Đài Loan) và nguyên nhân là do những bất đồng về mức lương. Không có cuộc đình công nào tuân theo ủy quyền hoà giải và quá trình phân xử, và do đó chính quyền coi các cuộc đình công là đình công “tự phát” bất hợp pháp. Chính phủ đã không có bất kỳ hành động chống lại các cuộc đình công và thi thoảng làm thỏa thuận trung gian có lợi cho người lao động. Trong một số trường hợp, chính phủ phạt nặng nề những nhà tuyển dụng, đặc biệt là với các công ty nước ngoài tham gia trong các hoạt động bất hợp pháp dẫn đến đình công.
Đã có một số báo cáo nói rằng các nhà tuyển dụng trả thù người tham gia đình công bằng cách hạn chế triển vọng việc làm trong tương lai.
Cũng có những báo cáo đáng tin cậy mà nhà tuyển dụng có xu hướng sử dụng các hợp đồng ngắn hạn hoặc tập sự để tránh một số lợi ích hợp pháp của người lao động, chẳng hạn như bảo hiểm thất nghiệp, hoặc ngăn chặn công nhân tham gia công đoàn. Nhiều nhà tuyển dụng không để cho các nhà lãnh đạo công đoàn gặp gỡ người lao động trừ khi cấp quản lý có mặt.
b. Cấm lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc.
Luật pháp nghiêm cấm lao động cưỡng bức và bắt buộc, ngoại trừ theo quy định của xử phạt hành chính hoặc hình sự. Tuy nhiên, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tiếp tục báo cáo có sự xuất hiện của lao động cưỡng bức đối với người lớn.
Các công ty tuyển dụng lao động, hầu hết trong số đó liên kết với doanh nghiệp nhà nước, và các môi giới trung gian không có giấy phép, thường không bị trừng phạt vì các công ty này quy kết người lao động tìm kiếm tiền công lao động quốc tế cao hơn luật pháp cho phép. Những công nhân này bị kéo vào nợ nần và vì thế dễ bị cưỡng bức lao động, bao gồm cả gán nợ.
Tù nhân bị kết án bởi tòa án thường xuyên phải làm việc mà lại có ít hoặc không có lương.
Cơ quan chức năng thường xuyên yêu cầu các cá nhân, không bị kết tội nhưng bị bắt giữ theo nghị định hành chính tại các trung tâm cải tạo và các trung tâm giam giữ gái mại dâm và sử dụng ma túy, làm việc mà lại có ít hoặc không trả tiền theo quy định hành chính và luật pháp. Theo báo cáo, họ sản xuất thực phẩm và các hàng hóa khác được sử dụng trực tiếp trong các nhà tù hoặc được bán trên thị trường địa phương, để trả tiền cho các đồ dùng cá nhân. Tiếp tục có báo cáo đáng tin cậy rằng công ty tư nhân thuê lao động ngay trong các trại cai nghiện.
Năm 2011 và 2012, một tổ chức nhân quyền quốc tế báo cáo rằng chính quyền buộc cá nhân trong các trại giam cho người nghiện ma túy tham gia vào các công việc không được trả lương hoặc trả lương thấp như là một phần của việc điều trị. Đáp lại, các quan chức Bộ LĐTB & XH khẳng định rằng “lao động trị liệu” là một phần của việc điều trị cho các cá nhân trong các trung tâm này nhưng khẳng định rằng nó không bắt buộc đối với tất cả các cá nhân và đều được trả công.
Xem Báo cáo của Phòng phụ trách Buôn bán người tại www.state.gov/j/tip/.
c. Cấm lao động trẻ em và tuổi tối thiểu lao động
Pháp luật đặt ra độ tuổi lao động tối thiểu ở tuổi 18, nhưng các doanh nghiệp có thể thuê trẻ em ở độ tuổi từ 15 và 18, nếu các công ty có được sự cho phép của cha mẹ và Bộ LĐTBXH. Các doanh nghiệp thuê trẻ em từ 15 đến 18 phải cung cấp các yếu tố đặc biệt liên quan đến giờ làm việc, nghỉ hàng năm, và môi trường làm việc. Những trẻ em này có thể làm việc tối đa là tám giờ mỗi ngày và 40 giờ mỗi tuần và phải được chăm sóc y tế đặc biệt.
Pháp luật cho phép trẻ em đăng ký tại các trung tâm đào tạo thương mại, một hình thức đào tạo nghề, từ 14 tuổi mà không có sự đồng ý của cha mẹ. Theo luật, chủ nhân phải đảm bảo rằng công nhân dưới 18 tuổi không thực hiện công việc nguy hiểm hoặc việc làm có hại cho sự phát triển về thể chất hoặc tinh thần. Luật pháp cấm trẻ em làm công việc đòi hỏi có tư thế nén ép, tiếp xúc trực tiếp với hóa chất độc hại, tiếp xúc với chất phóng xạ, làm việc với nhiều loại hình lò nung hoặc kim loại nóng, xe cơ giới, vận hành máy nghiền sàng đá, máy điều hành hồ vải và các loại sợi bông, và các điều kiện khác.
Bộ LĐTB & XH chịu trách nhiệm thực thi pháp luật và chính sách lao động trẻ em. Các quan chức chính phủ có thể phạt và khởi tố trong trường hợp vi phạm hình sự sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động trẻ em. Nói chung, chính phủ cam kết đủ nguồn lực để thực thi hiệu quả pháp luật nhằm đảm bảo cho sự an toàn của trẻ em, đặc biệt là cho trẻ em làm việc trong hầm mỏ và phục dịch trong các gia đình. Bộ LĐTB & XH cho rằng hơn 25.000 trẻ em làm việc trong điều kiện độc hại trên cả nước; quan sát quốc tế cho rằng con số thực tế cao hơn.
Trong năm, có một số báo cáo rằng chính phủ phát hiện một số trường hợp trẻ em bị buộc phải làm công việc nguy hiểm, đã loại bỏ lao động trẻ em những nơi làm việc, và truy tố/phạt người sử dụng lao động. Theo đại diện chính phủ, các doanh nghiệp thường tuyên bố họ cung cấp việc “đào tạo nghề”, nhưng các thanh tra lao động của chính phủ – đã không được công bố – tìm thấy trẻ em làm việc 9 đến 12 giờ mỗi ngày với mức lương thấp và trong điều kiện làm việc nguy hiểm (bao gồm ánh sáng kém, môi trường bụi bẩn, và điều hành các máy móc hạng nặng) tại các nhà máy may mặc tư nhân nhỏ tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2012, năm gần nhất có dữ liệu, chính phủ ước tính rằng 1.450 trẻ em đang làm việc trong môi trường nguy hiểm tại thành phố Hồ Chí Minh, chẳng hạn như nhà máy may mặc, và gần lò gạch (công việc nặng nhọc quá mức, tiếp xúc với lửa).
Như một phần trong 5 năm đầu của Chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em, chính phủ tiếp tục các chương trình để loại bỏ sự dai dẳng của lao động trẻ em, đặc biệt tập trung vào các gia đình nghèo và trẻ mồ côi. Một dự án hợp tác với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) vẫn được tiếp tục để loại bỏ các hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em, tuy nhiên, lao động trẻ em vẫn còn là một vấn đề, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà hai phần ba dân số cư trú.
Trong khu vực nông thôn chủ yếu là trẻ em làm việc trong các trang trại gia đình, trong các hoạt động nông nghiệp khác và việc nhà, hoặc trong các hầm mỏ. Cũng có báo cáo về trẻ em làm việc trong các lò gạch. Một số cha mẹ không cho phép con đi học trong mùa thu hoạch và trồng trọt. Di cư từ nông thôn ra thành thị làm trầm trọng thêm các vấn đề lao động trẻ em vì người di cư trái phép không thể đăng ký hộ gia đình ở thành thị. Do đó, con cái của họ không thể học tại các trường công lập. Các quan chức thường phân công công việc cho người chưa thành niên trong các trung tâm nuôi dưỡng và giáo dục, có chức năng tương tự như các trường giáo dưỡng hoặc các trung tâm giam giữ vị thành niên, vì “mục đích giáo dục.”
Trong khu vực đô thị trẻ em làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ do gia đình sở hữu, bao gồm nhà máy may mặc tư nhân nhỏ, hoặc đánh giày, bán vật phẩm trên đường phố, chẳng hạn như bán vé số và bán báo. Cũng có báo cáo về lao động trẻ em ở nhà máy may mặc.
d . Điều kiện chấp nhận Công việc
Bắt đầu từ ngày 1 tháng 7, mức lương tối thiểu hàng tháng cho công chức, viên chức nhà nước đã tăng từ 1,05 triệu đồng ($50) lên 1.150 triệu đồng ($ 54,40). Chính phủ xác định chuẩn nghèo cho giai đoạn 2011-15 là 400.000 đồng (18,90$) mỗi tháng cho các hộ gia đình nông thôn và 500.000 đồng (23,70$) cho các hộ gia đình thành thị.
Pháp luật đặt ra số giờ làm việc bình thường là 8 tiếng mỗi ngày, bắt buộc có 24 tiếng nghỉ mỗi tuần. Làm thêm giờ được yêu cầu trả tiền thêm giờ bằng 1,5 lần mức lương bình thường, bằng hai lần mức lương bình thường khi làm việc trong 24 giờ phép, và ba lần mức lương bình thường cho các ngày nghỉ phép, nghỉ lễ và ngày nghỉ được trả lương. Bộ luật lao động mới giới hạn làm thêm giờ bằng 50 phần trăm giờ làm việc bình thường mỗi ngày, 30 giờ mỗi tháng, và 200 giờ trong một năm, nhưng đưa ra ngoại lệ trong trường hợp đặc biệt, với tối đa là 300 giờ làm thêm trong năm, tùy thuộc vào quy định của chính phủ sau khi tham khảo ý kiến Tổng Liên đoàn và đại diện bên sử dụng lao động. Luật cũng quy định nghỉ lễ hàng năm phải được trả đủ lương trong cả khu vực công và tư nhân.
Chính phủ thiết lập tuần làm việc cho nhân viên chính phủ và nhân viên của các công ty trong khu vực nhà nước là 40 giờ và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức nước ngoài và quốc tế sử dụng lao động địa phương để giảm số giờ trong tuần làm việc xuống còn 40 giờ, nhưng việc tuân thủ là không bắt buộc.
Theo quy định pháp luật, doanh nghiệp không được sa thải một nhân viên nữ đang đính hôn hoặc đang mang thai, nghỉ thai sản, hoặc chăm sóc cho trẻ em dưới một tuổi, trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Lao động nữ có thai ít nhất bảy tháng hoặc đang chăm sóc cho trẻ em dưới một tuổi có thể không bắt buộc phải làm thêm giờ vào ban đêm, hoặc làm tại các địa điểm xa nhà.
Vẫn chưa rõ rằng về mức độ nghiêm khắc mà chính phủ thực thi các quy định về tiền lương, giờ, và lợi ích hoặc các trường hợp ngoại lệ cho lao động nữ nhất định. Bộ LĐTB & XH phối hợp với Uỷ ban nhân dân địa phương và công đoàn lao động, chịu trách nhiệm thực thi pháp luật, nhưng việc thực thi là bất thường vì nhiều lý do, bao gồm cả kinh phí thấp và thiếu nhân viên thực thi đã được đào tạo. Tổng LĐLĐ khẳng định rằng chính quyền đã không thường xuyên truy tố các vi phạm. Bộ LĐTB & XH thừa nhận những thiếu sót trong hệ thống thanh tra lao động của mình và nhấn mạnh rằng số lượng lao động thanh tra toàn quốc là không đủ. Theo các quan chức Bộ LĐTBXH, đã có khoảng 150 các thanh tra lao động toàn thời gian và 350 thanh tra lao động bán thời gian. Tổng LĐLĐ tuyên bố, và Bộ LĐTBXH thừa nhận, tiền phạt thấp đối với các công ty vi phạm lao động là không hiệu quả với vai trò là một biện pháp chống lại hành vi vi phạm. Trong năm 2012 chính phủ mở rộng các lĩnh vực thanh tra, với các chủ đề khác nhau, từ quy định lao động và người khuyết tật đến bảo hiểm xã hội và các công ty tuyển dụng xuất khẩu.
Tiếp tục có các báo cáo đáng tin cậy rằng các nhà máy làm thêm giờ vượt quá ngưỡng quy định của pháp luật và không đáp ứng yêu cầu về số ngày nghỉ theo luật định. Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế trong tháng tư lưu ý rằng 122 trong số 132 nhà máy may mặc không phù hợp với giới hạn giờ làm thêm trong pháp luật.
Người lao động di cư, bao gồm cả người di cư kinh tế trong nước, tiếp tục là các công nhân dễ bị tổn thương nhất và cũng thường xuyên trong điều kiện làm việc nguy hiểm. Các công nhân khác thường xuyên làm việc trong lĩnh vực kinh tế không chính thức bao gồm các thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số.
Luật pháp yêu cầu Chính phủ ban hành quy tắc và quy định về an toàn lao động . Chấn thương tại nơi làm việc do điều kiện nghèo nàn về an toàn sức khỏe và lao dộng và đào tạo nhân viên đầy đủ vẫn là một vấn đề. Lĩnh vực khai thác mỏ và xây dựng có số lượng tai nạn lao động lớn nhất. Trong năm 2012, năm gần nhất có dữ liệu, đã có 6.777 vụ tai nạn lao động, tăng 14,9 phần trăm từ năm 2011.
*Xem bản tiếng Anh