Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders)
Thông cáo báo chí, ngày 2/10/2020
Theo thống kê của tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền, tính đến ngày 30/9/2020, chế độ cộng sản Việt Nam đang giam giữ ít nhất 258 tù nhân lương tâm trong các nhà tù hoặc các hình thức giam giữ khác. Con số này không bao gồm ôngNgô Hào- người đang được tạm hoãn thi hành án để chữa bệnh, và hai nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Trung Lĩnh cùng Lê Anh Hùng- những người đang bị chữa trị cưỡng bức trong bệnh viện tâm thần mà không qua thủ tục xét xử. Danh sách này bao gồm nhà hoạt động Huỳnh Thục Vy, người bị kết án 29 tháng tù giam nhưng được hoãn thi hành án và bị quản thúc vì đang nuôi con nhỏ, công dân Hoa Kỳ Michael Minh Phương Nguyễn, người bị kết tội “âm mưu lật đổ chính phủ” theo Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015 của nước này, và công dân Úc Châu Văn Khảm, người bị kết tội khủng bố theo Điều 113 của Bộ luật Hình sự.
Con số trên không bao gồm 15 dân oan từ xã Đồng Tâm, những người bị bắt vào ngày 9/1 năm nay trong cuộc tấn côngcủa công an vào địa phương và bị kết tội “chống người thi hành công vụ” trong phiên xử sơ thẩm vào các ngày 7-14/ 9 nhưng bị kết án treo.
Trong số 258 tù nhân lương tâm có 28 người là phụ nữ. Có 188 người thuộc nhóm sắc tộc Kinh. Nhóm sắc tộc lớn thứ hai trong danh sách là người Thượng, một nhóm người dân tộc thiểu số sống ở vùng núi Tây Nguyên. Họ có 62 người, chiếm 24%. Sáu tù nhân lương tâm là người Hmong và 2 người là Khmer Krom.
Tù nhân lương tâm trong danh sách của Người Bảo vệ Nhân quyền là những blogger, luật sư, người hoạt động công đoàn, nhà hoạt động về quyền đất đai, nhà bất đồng chính kiến, người hoạt động nhân quyền và tín đồ của các tôn giáo thiểu số không đăng ký đã bị bắt giữ và kết án chỉ vì thực hiện một cách ôn hoà các quyền được bảo vệ bởi các công ước nhân quyền quốc tế và hiến pháp Việt Nam như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do của tôn giáo hoặc niềm tin. Danh sách này không bao gồm các cá nhân đã tham gia hoặc ủng hộ bạo lực.
Việt Nam vẫn đang giam giữ 28 nhà hoạt động trước khi xét xử, 7 người trong số họ bị bắt trong hai năm 2018-2019 và 21 người còn lại bị bắt vào năm 2020. Trong số đó có nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam (IJAVN) cùng Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thụy và blogger Phạm Chí Thành (tức Phạm Thành)
Những người trên bao gồm 230 người đã bị kết án – hầu hết là bị kết án với tội danh chính trị theo các Điều 79, 87 và 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 109, 116, 117 và 331 trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng số trên bao gồm:
– 49 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội lật đổ chế độ (Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 48 nhà hoạt động bị kết án hoặc bị buộc tội tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 56 người dân tộc thiểu số bị kết tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc (Điều 87 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 16 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 13 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội “gây rối an ninh” theo Điều 118 Bộ luật Hình sự 2015;
– 45 cá nhân bị kết án hoặc truy tố tội “Gây rối trật tự công cộng” (theo Điều 245 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015) vì hoạt động ôn hòa. Ba mươi ba người trong số họ đã bị bỏ tù vì tham gia hoặc bị nghi ngờ lên kế hoạch tham gia vào các cuộc biểu tình quần chúng vào giữa tháng 6 năm 2018;
– Ba nhà hoạt động Châu Văn Khảm (công dân Úc gốc Việt), Nguyễn Văn Viên và Trần Văn Quyền bị kết tội “khủng bố” theo Điều 113 Bộ luật Hình sự 2015.
– Hiện chưa rõ tội danh cho 13 cá nhân, trong đó có 3 người theo Montagaards thuộc giáo phái Hà Mòn bị bắt vào ngày 19/3 năm nay.
Bối cảnh trong nước và quốc tế
Để đảm bảo “xã hội ổn định” cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền tiến hành đại hội đảng bộ địa phương các cấp và chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 dự kiến vào tháng 1 năm 2021, chế độ cộng sản đã thắt chặt quyền kiểm soát đối chính trị, tăng cường đàn áp những người bất đồng chính kiến, những người chỉ trích chính phủ, người hoạt động xã hội và những người bảo vệ nhân quyền.
Cuộc đàn áp tiếp tục diễn ra trước và sau khi Nghị viện châu Âu phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) vào cuối tháng 3 và dự kiến sẽ khốc liệt hơn trong ba tháng còn lại của năm nay.
Khi Hoa Kỳ, EU và các nước khác đang tập trung vào các vấn đề của riêng họ do đại dịch Covid-19 gây ra và cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ vào ngày 3/11, chế độ cộng sản Việt Nam dường như tận dụng cơ hội để tăng cường đàn áp bất đồng chính kiến trong nước mà không bị chỉ trích bởi cộng đồng quốc tế. Cuộc đàn áp đã lên đến đỉnh điểm trong những tháng gần đây với việc bắt giữ hàng chục nhà hoạt động và buộc tội họ với những điều khoản gây tranh cãi về các điều khoản an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự.
Bắt giữ từ tháng 7 đến cuối tháng 9
Từ ngày 1/7 đến ngày 30/9, Việt Nam đã bắt giữ bốn nhà hoạt động. Cựu nhà báo Trần Thị Tuyết Diệu của tờ báo Phú Yên bị bắt vào ngày 21/8 với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự trong khi người khiếu kiện đất đai là Lê Văn Hải, công dân tỉnh Nghệ An Nguyễn Quang Vinh và cán bộ Quách Duy của Văn phòng Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bị bắt và bị khởi tố về tội “lợi dụng tự do dân chủ” theo Điều 331. Việc bắt giữ họ dựa trên các bài đăng của họ trên Facebook liên quan đến các vấn đề của đất nước như tham nhũng có hệ thống, ô nhiễm môi trường lan rộng, các chính sách tồi của chính phủ cộng sản Việt Nam trong quản lý kinh tế xã hội, và phản ứng yếu ớt của chế độ cộng sản Việt Nam trước việc Trung Cộng xâm phạm chủ quyền quốc gia ở Biển Đông.
Từ đầu năm 2020, chế độ cộng sản Việt Nam đã bắt giữ 24 nhà hoạt động và 29 dân oan ở xã Đồng Tâm. Có tới 13 nhà hoạt động bị buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự vì các bài viết của họ và trả lời phỏng vấn truyền thông nước ngoài cũng như báo cáo các hành vi vi phạm nhân quyền cho đại diện ngoại giao nước ngoài.
Trong số những người bị bắt giữ có hai thành viên của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN), Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn, blogger nổi tiếng Phạm Chí Thành (bút danh Phạm Thành), cũng như nhà hoạtđộng môi trường Đinh Thị Thu Thủy đến từ tỉnh Hậu Giang. Ông Thụy, 68 tuổi và ông Tuấn, 31 tuổi, đang bị điều tra trong cùng một vụ án “tuyên truyền chống nhà nước” với Chủ tịch IJAVN Phạm Chí Dũng, người đã bị bắt vào tháng 11 năm ngoái.
Vào cuối tháng 9, công an tỉnh Đắk Lắk đã bắt cóc tiến sỹ Phạm Đình Quý, giảng viên Đại học Tôn Đức Thắng và Hoàng Minh Tuấn, giáo viên trường THPT Lê Thánh Tôn, thành phố Nha Trang, và đưa họ về giam tại trại tạm giam của công an tỉnh Dak Lak để thẩm vấn về việc họ tố cáo Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Bùi Văn Cường đạo văn khi làm luận án tiến sĩ. Hai người này đã bị tạm giữ và có thể bị truy cứu về tội “vu khống” khi Công an tỉnh Đắk Lắk hình sự hóa một vụ tranh chấp dân sự giữa hai người bị tạm giữ và Bí thư Cường, người là Ủy viên Trung ương Đảng và một trong những ứng cử viên cho chức bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho nhiệm kỳ tới.
Kết án trong tháng 7-9
Trong thời gian này, chế độ cộng sản đã tổ chức ba phiên tòa sơ thẩm riêng biệt để kết án tám thành viên của nhóm Hiến Pháp, 29 dân oan đất Đồng Tâm và nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Quốc Đức Vượng.
Ngày 31/7, Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết án tám thành viên của Hiến Pháp là ba bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Hoàng Thị Thu Vang, và Đoàn Thị Hồng, và năm ông là Ngô Văn Dũng, Trần Thanh Phương, Lê Quý Lộc, Đỗ Thế Hóa và Hồ Văn Cường. Tất cả 8 người bị bắt vào đầu tháng 9 năm 2018 và bị buộc tội “gây rối an ninh” theo Điều 118 của Bộ luật Hình sự chỉ vì họ tham gia tích cực trong cuộc biểu tình tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10/6/2018, trong đó hàng chục ngàn người đã biểu tình phản đối hai dự luật về Đặc khu kinh tế và An ninh mạng. Trong thời gian xét xử ngắn ngủi không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về một phiên tòa công bằng, các nhà hoạt động đã bị kết án từ 30 tháng đến 8 năm tù và 2 đến 3 năm quản chế. Bốn nhà hoạt động Ngô Văn Dũng, Lê Quý Lộc, Hồ Văn Cương, và Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã kháng cáo phán quyết của tòa án trong khi bốn nhà hoạt động còn lại chấp nhận và họ bị chuyển đến trại tù Bố Lá để thi hành án.
Vào ngày 7/7, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã kết tội Facebooker Nguyễn Quốc Đức Vương với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” và tuyên phạt anh tám năm tù và ba năm quản chế.
Từ tháng 1 đến tháng 9, chế độ cộng sản Việt Nam đã kết án 15 nhà hoạt động từ chín tháng đến tám năm tù và 14 dân oan từ xã Đồng Tâm. Trong số các nhà hoạt động bị kết án, Nguyễn Văn Nghiêm và Phan Công Hải lần lượt bị kết án sáu năm và năm năm tù giam vì “tuyên truyền chống nhà nước” cho các bài đăng trên Facebook của họ trong khi Chung Hoàng Chương và Mã Phùng Ngọc Phú đã bị kết án 18 tháng và chín tháng tù tương ứng sau khi bị kết tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 cũng vì các bài đăng trên Facebook của họ. Hai người còn lại bị kết án là Đặng Thị Huệ và Bùi Mạnh Tiến vì nỗ lực chống tham nhũng chống thu phí đường bộ trái phép của các trạm thu phí BOT, có khả năng được các quan chức cấp cao của chế độ ủng hộ. Bộ đôi này đã bị Toà án Nhân dân huyện Sóc Sơn tuyên phạt lần lượt 42 và 15 tháng tù giam vào đầu tháng 5 vừa qua.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã y án bản án 11 năm tù giam và 5 năm quản chế đối với nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Năng Tĩnh về tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước.”
Ngược đãi trong tù
Bộ Công an Việt Nam tiếp tục chính sách giam giữ các tù nhân, đặc biệt là tù nhân lương tâm, trong điều kiện sống khắc nghiệt để trừng phạt họ vì những hoạt động bất bạo động nhưng có hại cho chế độ cộng sản và bẻ gãy tinh thần của họ. Cùng với việc đưa các tù nhân lương tâm đến các trại giam xa gia đình, bộ cho phép giám thị các nhà tù áp dụng các biện pháp tâm lý khác để khiến cuộc sống của các nhà hoạt động bị bỏ tù trở nên khó khăn hơn, chẳng hạn như từ chối họ quyền được gặp gỡ thường xuyên với gia đình và nhận thêm thức ăn và thuốc từ người thân của họ, hoặc buộc họ làm việc nặng nhọc mà không có dụng cụ bảo hộ thích hợp. Giám thị và quản giáo cũng gây thêm tổn thương về tâm lý và tài chính cho các thành viên trong gia đình của thù nhân lương tâm.
Vào giữa tháng 4, cảnh sát đã hành hung các tù nhân lương tâm Ngô Văn Dũng và Lê Quý Lộc khi họ bị giam tại trại tạm giam Phan Đăng Lưu, thuộc Công an thành phố Hồ Chí Minh. Do vết thương quá nặng gây ra bởi các cuộc tấn công, cả hai phải nhập viện điều trị trong một tuần. Sau đó, ông Lộc được đưa trở lại cơ sở giam giữ trên còn ông Dũng được chuyển đến cơ sở tạm giam Chí Hòa cũng thuộc thẩm quyền của công an thành phố trước khi chuyển ông về chỗ cũ.
Vào đầu tháng Giêng, chính quyền tại Trại giam Ba Sao ở tỉnh Hà Nam đã giam Phan Kim Khánh và Nguyễn Viết Dũng trong phòng biệt giam trong nhiều tuần để trả thù vì họ phản đối việc đối xử vô nhân đạo trong tù.
Nhà hoạt động Đoàn Thị Hồng bị giam giữ nói với gia đình rằng cô bị giam giữ trong điều kiện sống khắc nghiệt trong một cơ sở tạm giữ thuộc thẩm quyền của Công an thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn điều tra cũng như trong thời gian tạm giam trước khi xét xử.
Chính quyền Trại giam Xuân Lộc tiếp tục giam giữ các tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đức Độ và Huỳnh Đức Thanh Bình trong một khu biệt lập dành cho các tù nhân bị kỷ luật từ tháng 5 như hình phạt bổ sung sau khi họ yêu cầu đặc quyền ngoài trời trong những ngày cuối tuần. Gia đình của họ được phép tiến hành thăm nhà tù hai tháng một lần trongkhi hàng tháng gia đình các tù nhân khác được đến thăm một lần và một lần cung cấp thực phẩm. Những người bị giam giữ trong khu vực kỷ luật không được phép gặp các tù nhân chính trị và hình sự. Gia đình ông Độ đã báo cáo rằng banlãnh đạo Trại giam Xuân Lộc đã đánh ông và trộn chất thải của con người vào cơm của ông.
Từ tháng 3 đến tháng 8, khi đại dịch COVID-19 đang lan rộng trên toàn quốc, chính quyền các trại tù và cơ sở tạm giữ của Việt Nam đã không cho phép gia đình và thân nhân của các tù nhân lương tâm gặp họ hoặc cung cấp thêm thực phẩm và thuốc men cho họ, cũng như các mặt hàng thiết yếu khác. Vì phẩm cấp thực phẩm thấp, sức khỏe yếu và điềukiện vệ sinh thấp kém trong các nhà tù, cuộc sống của các tù nhân lương tâm thường bị đe dọa nghiêm trọng.
Cùng với việc đàn áp tù nhân lương tâm, chính quyền một số địa phương còn sách nhiễu gia đình họ. Sau khi bắt cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu và hai con trai của bà là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” vào cuối tháng 6, Công an Hà Nội và Hòa Bình liên tục uy hiếp gia đình bà, triệu tập chồng bà là ông Trịnh Bá. Khiêm, cũng là một cựu tù nhân lương tâm và vợ ông Phương là bà Đỗ Thị Thu đến đồn cảnh sát để thẩm vấn về hoạt động của những người bị giam giữ.
Mãn hạn tù từ tháng 7 đến tháng 9
Cuối tháng 6, blogger Hồ Hải được trả tự do sau 4 năm ngồi tù. Năm 2016, ông bị bắt và bị buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” cho các bài đăng trên Facebook của mình. Chúng tôi đã không thông báo về việc mãn hạn tù của ông trong báo cáo giữa năm.
Trong 3 tháng của quý 3, có năm người đã được trả tự do hoặc mãn hạn tù. Vào ngày 18/9, mục sư Tin lành A Đảo đã được trả tự do sau 4 năm tù giam nhờ lời kêu gọi của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ và một số dân biểu Hoa Kỳ. Ông ta bị bắt vào tháng 8 năm 2016 và bị kết án 5 năm tù sau khi tham gia một hội nghị tôn giáo khu vực ở Đông Timor.
Vào đầu tháng Bảy, ông Lê Minh Thế, một thành viên của nhóm Hiến Pháp, được trả tự do trước thời hạn ba tháng trước khi bản án hai năm tù của ông kết thúc vào tháng Mười. Ông bị bắt vào ngày 10/10/2018 và bị buộc tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ” cũng vì bài đăng trên Facebook của anh ta.
Đoàn Khánh Vinh Quang, người bị bắt vào ngày 10/6/ 2018 với cáo buộc “lạm dụng quyền tự do dân chủ” và sau đó bị kết án 27 tháng tù, dự kiến sẽ được thả vào ngày 10/9 năm nay.
Ba nhà hoạt động Đặng Văn Tuấn, Lê Trọng Nghĩa và Trần Quang Khải, bị kết tội “gây rối trật tự công cộng” và bị kết án từ 18 tháng đến 27 tháng tù, cũng đến hạn mãn hạn tù trong tháng Chín.
Từ đầu năm đến nay, 23 tù nhân lương tâm đã được trả tự do hoặc dự kiến sẽ mãn hạn tù. Người Bảo vệ Nhân quyềnkhông có thông tin xác nhận việc trả tự do cho 15 nhà hoạt động. Tuy nhiên, tổ chức vẫn đưa tên họ ra khỏi danh sách này.
Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền lo ngại về việc nhà cầm quyền Hà Nội đang giam giữ hai nhà hoạt động Nguyễn Trung Lĩnh và Lê Anh Hùng trong một trại tâm thần tại địa phương sau khi điều tra họ về các cáo buộc tương ứng là “tuyên truyền chống nhà nước” và “lạm dụng tự do dân chủ” mà không có bất kỳ thủ tục xét xử nào. Hai nhà hoạt động bị cưỡng bức dùng thuốc, vốn bị coi là tra tấn theo luật pháp quốc tế.
=============
Thuật ngữ tù nhân lương tâm (POC) được Peter Benenson đưa ra vào những năm 1960. Khái niệm này đề cập đến bất kỳ cá nhân nào bị giam cầm vì niềm tin chính trị, tôn giáo hoặc vì lương tâm, nguồn gốc dân tộc, giới tính, màu da, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tình trạng kinh tế, sinh sản, khuynh hướng tình dục hoặc tình trạng khác mà không sử dụng bạo lực hoặc ủng hộ bạo lực hoặc thù hận.
Tổ chức Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders– DTD) là tổ chức phi lợi nhuận độc lập ở Việt Nam, hoạt động nhằm thúc đẩy quyền con người và quyền công dân. Tổ chức này có một mạng lưới với hàng trăm người bảo vệ nhân quyền trên toàn quốc, những người báo cáo tình trạng vi phạm nhân quyền trong khu vực của họ.
============
Phụ lục: Danh sách tù nhân lương tâm và danh sách các tù nhân lương tâm được trả tự do từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2020
TT |
Tên |
Năm sinh |
Ngày bị bắt |
Cáo buộc |
Mức án |
Cơ sở giam giữ |
1 |
Lê Văn Hải |
1966 |
18/9/2020 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Bình Định |
2 |
Quách Duy |
1982 |
18-Sep-20 |
331 |
Tạm giam |
Trại tam giam CA thành phố HCM |
3 |
Trần Thị Tuyết Diệu |
1988 |
21/8/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Phú Yên |
4 |
Nguyễn Thị Cẩm Thuý |
1976 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Khánh Hoà |
5 |
Vũ Tiến Chi |
1966 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Lâm Đồng |
6 |
Trịnh Bá Tư |
1989 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Hoà Bình |
7 |
Trịnh Bá Phương |
1985 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA thành phố Hà Nội |
8 |
Nguyễn Thị Tâm |
1982 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA thành phố Hà Nội |
9 |
Cấn Thị Thêu |
1962 |
24/6/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Hoà Bình |
10 |
Phan Thị Thanh Hồng |
1969 |
21/6/2020 |
318 |
Tạm giam |
Trại tam giam CA thành phố HCM |
11 |
Nguyễn Đăng Thương |
1957 |
13/6/2020 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam, Công an Q8, Sài Gòn |
12 |
Huỳnh Anh Khoa |
1982 |
13/6/2020 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam, Công an Q8, Sài Gòn |
13 |
Lê Hữu Minh Tuấn |
1089 |
12-Jun-20 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam Chí Hoà, HCM |
14 |
Trần Đức Thạch |
1952 |
23/4/2020 |
109 |
Tạm giam |
Tauh tạm giam Nghi Kim- CA Nghệ An |
15 |
Đinh Thị Thu Thuỷ |
1982 |
18/4/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam CA tỉnh Hậu Giang |
16 |
Nguyễn Tường Thuỵ |
1950 |
23/5/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam Chí Hoà, HCM |
17 |
Phạm Thành |
1952 |
21/5/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam Hoả Lò, Hà Nội |
18 |
Jư |
1964 |
19/3/2020 |
|
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
19 |
Lup |
1972 |
19/3/2020 |
|
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
20 |
Kưnh |
1992 |
19/3/2020 |
|
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
21 |
Đinh Văn Phú |
1973 |
O9/1/2020 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Dak Nong |
22 |
Phạm Chí Dũng |
1966 |
21/11/2019 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA HCM |
23 |
Nguyễn Văn Quang |
1987 |
12/O6/2018 |
117 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Thanh Hoá |
24 |
Trịnh Viết Bảng |
1959 |
13/5/2019 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA tỉnh Bắc Ninh |
25 |
Nguyễn Duy Sơn |
1981 |
O8/5/2018 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Thanh Hoá |
26 |
Nguyễn Văn Trường |
1976 |
O9/2/2018 |
331 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA Thái Nguyên |
27 |
Y Pum Nie |
1964 |
10/O4/2018 |
116 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA HCM |
28 |
Nguyễn Bá Mạnh |
1987 |
20/3/2019 |
288 |
Tạm giam |
Trại tạm giam của CA tỉnh Bắc Ninh |
29 |
Lê Đình Công |
1964 |
9/1/20 |
123 |
death |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
30 |
Lê Đình Chức |
1980 |
9/1/20 |
123 |
death |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
31 |
Bùi Viết Hiếu |
1943 |
9/1/20 |
123 |
16 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
32 |
Nguyễn Văn Tuyến |
1974 |
9/1/20 |
123 |
12 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
33 |
Lê Đình Doanh |
1988 |
9/1/20 |
123 |
life impr. |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
34 |
Nguyễn Quốc Tiến |
1980 |
9/1/20 |
123 |
13 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
35 |
Nguyễn Văn Quân |
1980 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
36 |
Lê Đình Uy |
1993 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
37 |
Lê Đình Quang |
1984 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
38 |
Bùi Thị Nối |
1958 |
9/1/20 |
330 |
6 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
39 |
Bùi Văn Tiến |
1979 |
9/1/20 |
330 |
5 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
40 |
Nguyễn Văn Duệ |
1962 |
9/1/20 |
330 |
3 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
41 |
Bùi Văn Tuấn |
1991 |
9/1/20 |
330 |
3 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
42 |
Trịnh Văn Hải |
1988 |
9/1/20 |
330 |
3 |
Trại tạm giam số 2, CA thành phố Hà Nội |
43 |
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh |
1976 |
O3/9/2018 |
118 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
44 |
Hồ Đình Cương |
N/A |
O4/9/2018 |
118 |
4.5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
45 |
Ngô Văn Dũng |
1969 |
O4/9/2018 |
118 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
46 |
Đoàn Thị Hồng |
1983 |
O2/9/2018 |
118 |
2.5 năm |
Trại giam Bố Lá |
47 |
Lê Quý Lộc |
1976 |
11/O6/2018 |
118 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
48 |
Hoàng Thị Thu Vang |
1966 |
O3/9/2018 |
118 |
7 năm |
Trại giam Bố Lá |
49 |
Đỗ Thế Hoá |
1968 |
O2/9/2018 |
118 |
5 năm |
Trại giam Bố Lá |
50 |
Trần Thanh Phương |
1975 |
O2/9/2018 |
118 |
3.5 năm |
Trại giam Bố Lá |
51 |
Châu Văn Khảm |
1949 |
13/1/2019 |
113 |
12 năm |
Trại giam Thủ Đức, tỉnh Bình Thuận |
52 |
Nguyễn Văn Viễn |
1971 |
13/1/2019 |
113 |
11 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
53 |
Trần Văn Quyến |
1999 |
23/1/2019 |
113 |
10 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
54 |
Đoàn Viết Hoan |
1984 |
25/4/2019 |
118 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
55 |
Nguyễn Đình Khue |
1978 |
25/4/2019 |
118 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
56 |
Võ Thường Trung |
1977 |
25/4/2019 |
118 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
57 |
Ngô Xuân Thành |
1970 |
25/4/2019 |
118 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
58 |
Trương Hữu Lộc |
1963 |
11/O6/2018 |
118 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
59 |
Nguyễn Quốc Đức Vượng |
1991 |
23/9/2019 |
117 |
8 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
60 |
Nguyễn Văn Nghiêm |
1963 |
O5/11/2019 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam CA tỉnh Hoà Bình |
61 |
Phan Công Hải |
1996 |
19/11/2019 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam Nghi Kim- Nghệ An |
62 |
Lê Văn Phương |
1990 |
26-Oct-18 |
117 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
63 |
Trần Thanh Giang |
1971 |
23/4/2019 |
117 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA An Giang |
64 |
Huỳnh Minh Tâm |
1979 |
26/1/2019 |
117 |
9 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
65 |
Huỳnh Thị Tố Nga |
1983 |
28/1/2019 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
66 |
Nguyễn Chí Vững |
1981 |
23/4/2019 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam của CA Bạc Liêu |
67 |
Phạm Văn Điệp |
1965 |
29/6/2019 |
117 |
9 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Thanh Hoá |
68 |
Nguyễn Năng Tĩnh |
1976 |
29/5/2019 |
117 |
11 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
69 |
Nguyễn Văn Phước |
1979 |
10/12/2O18 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam CA tỉnh An Giang |
70 |
Nguyễn Ngọc Ánh |
1980 |
30/O8/2018 |
117 |
8 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
71 |
Huỳnh Trương Ca |
1971 |
O4/9/2018 |
117 |
5.5 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
72 |
Dương Thị Lanh |
1983 |
28/1/2019 |
117 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA Dak Nong |
73 |
Huỳnh Đắc Tuý |
1976 |
22/2/2019 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Quảng Ngãi |
74 |
Nguyễn Văn Công Em |
1971 |
28/2/2019 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA Bến Tre |
75 |
Vũ Thị Dung |
1965 |
13/10/2018 |
117 |
6 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
76 |
Nguyễn Thị Ngọc Sương |
1968 |
13/10/2018 |
117 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Đồng Nai |
77 |
Nguyễn Đình Thành |
1991 |
O8/6/2018 |
117 |
7 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Dương |
78 |
Nguyễn Viết Dũng |
1976 |
27/9/2017 |
88 |
6 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
79 |
Trần Hoàng Phúc |
1994 |
29/6/2017 |
88 |
6 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
80 |
Vũ Quang Thuận |
1966 |
O2/3/2017 |
88 |
8 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
81 |
Nguyễn Văn Điển |
1980 |
O2/3/2017 |
88 |
6,5 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
82 |
Phan Kim Khánh |
1983 |
21/3/2017 |
88 |
6 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
83 |
Nguyễn Văn Hoá |
1995 |
11/O1/2017 |
88 |
7 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
84 |
Bùi Hiếu Võ |
1962 |
O3/2017 |
88 |
4,5 năm |
Không rõ |
85 |
Trương Thị Thu Hằng |
1984 |
16/O2/2017 |
88 |
4 năm |
Không rõ |
86 |
Pham Long Dai |
1996 |
16/O2/2017 |
88 |
6 năm |
Không rõ |
87 |
Doan Thi Bich Thuy |
1972 |
16/O2/2017 |
88 |
5 năm |
Không rõ |
88 |
Huỳnh Thị Kim Quyên |
1979 |
30/O4/2017 |
88 |
4 năm |
Không rõ |
89 |
Nguyễn Tấn An |
1992 |
30/O4/2017 |
88 |
5 năm |
Không rõ |
90 |
Nguyễn Ngọc Quy |
1992 |
30/O4/2017 |
88 |
4 năm |
Không rõ |
91 |
Michael Minh Phương Nguyễn |
|
O7/7/2018 |
109 |
12 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
92 |
Trần Long Phi |
1996 |
O7/7/2018 |
109 |
8 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
93 |
Huỳnh Đức Thanh Bình |
1996 |
O7/7/2018 |
109 |
10 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
94 |
Tạ Tấn Lộc |
1975 |
16/O2/2017 |
79 |
14 năm |
Không rõ |
95 |
Nguyen Quang Thanh |
1983 |
16/O2/2017 |
79 |
14 năm |
Không rõ |
96 |
Nguyễn Văn Nghĩa |
1977 |
16/O2/2017 |
79 |
12 năm |
Không rõ |
97 |
Nguyen Van Tuan |
1984 |
16/O2/2017 |
79 |
12 năm |
Không rõ |
98 |
Từ Công Nghĩa |
1993 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
10 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
99 |
Phan Trung |
1976 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
8 năm |
Trại giam Bố Lá (Bình Dương) |
100 |
Nguyễn Quốc Hoàn |
1977 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
101 |
Nguyễn Văn Đức Độ |
1975 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
11 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
102 |
Lưu Văn Vịnh |
1967 |
O5/11/2016 |
79 (109) |
15 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
103 |
Lê Đình Lượng |
1965 |
24/7/2017 |
79 (109) |
20 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
104 |
Nguyễn Văn Túc |
1974 |
O1/9/2017 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
105 |
Nguyễn Trung Trực |
1963 |
O4/8/2017 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
106 |
Nguyễn Trung Tôn |
1971 |
30/7/2017 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
107 |
Trương Minh Đức |
1960 |
30/7/2017 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
108 |
Phạm Văn Trội |
1972 |
30/7/2017 |
79 (109) |
7 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
109 |
Nguyễn Bắc Truyển |
1968 |
30/7/2017 |
79 (109) |
11 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
110 |
Trần Thị Xuân |
1976 |
17/10/2017 |
79 (109) |
9 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
111 |
Huỳnh Hữu Đạt |
1970 |
O1/2/2017 |
79 (109) |
13 năm |
Không rõ |
112 |
Trần Huỳnh Duy Thức |
1966 |
24/5/2009 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
113 |
Lê Thanh Tùng |
1968 |
15/12/2015 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
114 |
Trần Anh Kim |
1949 |
21/9/2015 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
115 |
Hồ Đức Hoà |
1974 |
O2/8/2011 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam Ba Sao (Hà Nam) |
116 |
Phạm Thị Phượng |
1945 |
O4/2010 |
79 (109) |
11 năm |
An Phuoc Prison camp in Binh Duong |
117 |
Phan Văn Thu |
1948 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
chung thân |
An Phuoc Prison camp in Binh Duong |
118 |
Lê Xuân Phúc |
1951 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
15 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
119 |
Le Trong Cu |
1966 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
120 |
Lê Duy Lộc |
1956 |
15/O2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
121 |
Nguyen Ky Lac |
1956 |
O6/2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
122 |
Đỗ Thị Hồng |
1957 |
14/O2/2012 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam Bình Phước (Bình Phước) |
123 |
Tạ Khu |
1947 |
O6/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
124 |
Trần Phi Dũng |
1984 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
125 |
Trần Quân |
1966 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
13 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
126 |
Vo Ngoc Cu |
1951 |
O6/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
127 |
Vo Thanh Le |
1955 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
128 |
Võ Tiết |
1952 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
129 |
Vương Tân Sơn |
1953 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
17 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
130 |
Doan Van Cu |
1962 |
10/O2/2012 |
79 (109) |
14 năm |
Trại giam số 5 (Thanh Hoá) |
131 |
Lê Đức Đồng |
1983 |
O5/2/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
132 |
Lương Nhật Quang |
1987 |
O3/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
133 |
Phan Thanh Tường |
1987 |
28/O2/2012 |
79 (109) |
10 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
134 |
Nguyen Dinh |
1968 |
Không rõ |
79 (109) |
14 năm |
Không rõ |
135 |
Nguyễn Thái Bình |
1986 |
23/11/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Không rõ |
136 |
Phan Thanh Y |
1948 |
23/11/2012 |
79 (109) |
12 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
137 |
Tu Thien Luong |
1950 |
23/11/2012 |
79 (109) |
16 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
138 |
Hà Hải Ninh |
1988 |
10-Jul-05 |
109 |
|
Trại tạm giam của CA tỉnh Quảng Ninh |
139 |
Mã Phùng Ngọc Phú |
1992 |
1O/4/2020 |
331 |
9 tháng |
Trại tạm giam Ninh Kiều, Cần Thơ |
140 |
Chung Hoàng Chương |
1977 |
11/O1/2020 |
331 |
18 tháng |
Trại tạm giam của CA Ninh Kiều, Cần Thơ |
141 |
Nguyễn Thị Huệ |
1968 |
O2/3/2019 |
331 |
30 tháng |
Trại tạm giam của CA Gia Lai |
142 |
Đỗ Công Đương |
1964 |
24/1/2018 |
318, 331 |
9 năm |
Trại giam số 6, Nghệ An |
143 |
Hoàng Đức Bình |
1983 |
15/5/2017 |
330, 331 |
14 năm |
Trại giam An Điềm (Quảng Nam) |
144 |
Nguyễn Văn Thiên |
1961 |
Không rõ |
258 |
4 năm |
Không rõ |
145 |
Bùi Mạnh Đồng |
1978 |
O9/2018 |
331 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Cần Thơ |
146 |
Lê Văn Sinh |
1965 |
O2/2019 |
331 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA tỉnh Ninh Bình |
147 |
Pastor Y Yich |
1969 |
13/5/2013 |
46, 49 and 87 |
12 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
148 |
A Gyun |
1980 |
Không rõ |
87 |
6 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
149 |
A Tik |
1952 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
150 |
Dinh Ku |
1972 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Không rõ |
151 |
A Thin |
1979 |
Không rõ |
87 |
6 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
152 |
A Ngo |
1998 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
153 |
A Yen |
1984 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
154 |
Y Hriam Kpa |
1976 |
30/7/2015 |
87 |
6.5 năm |
Dak Tan Prison camp in Dak Lak |
155 |
Y Lao Mlo |
1987 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
156 |
A Quyn |
1973 |
Không rõ |
87 |
9,5 năm |
Không rõ |
157 |
Pastor A Byo |
1967 |
Không rõ |
87 |
4 năm |
Không rõ |
158 |
Y Drim Nie |
1979 |
29/1O/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
159 |
Rah Lan Hip |
1981 |
|
116 |
7 |
Gia Lai |
160 |
A Tach (aka Ba Hloi) |
1959 |
Không rõ |
87 |
11 năm |
Không rõ |
161 |
Y Yem Hwing |
1972 |
29/1O/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
162 |
A Chi |
1983 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
163 |
A Hung |
1980 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
164 |
A Ly |
1979 |
Không rõ |
87 |
7 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
165 |
Run |
1971 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
166 |
A Yum (aka Balk) |
1940 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
167 |
Buyk/Byuk |
1945 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
168 |
Buyk |
1963 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
169 |
John “Chinh” |
1952 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
170 |
A Hyum, (aka Ba Kol) |
1940 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
171 |
Siu Thai (aka Ama Thuong) |
1978 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
172 |
Kpuil Le |
N/A |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
173 |
Kpuil Mel |
N/A |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
174 |
Kpa Sinh |
1959 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
175 |
Rah Lan Blom |
1976 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
176 |
Rah Lan Mlih |
1966 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
177 |
Ro Mah Klit |
1946 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
178 |
Siu Brom |
1967 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
179 |
Siu Hlom |
1967 |
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
180 |
Ro Mah Pro |
1964 |
Không rõ |
87 |
8 năm |
Không rõ |
181 |
Rmah Hlach (aka Ama Blut) |
1968 |
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
182 |
Siu Koch (aka Ama Lien) |
1985 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
183 |
Noh |
1959 |
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
184 |
Ro Lan Ju (aka Ama Suit) |
1968 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
185 |
Siu Ben (aka Ama Yon) |
|
Không rõ |
87 |
12 năm |
Không rõ |
186 |
Kpa Binh |
1976 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
187 |
Rmah Pro |
1964 |
Không rõ |
87 |
Không rõ |
Không rõ |
188 |
Nhi (aka Ba Tiem) |
1958 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
189 |
Pinh |
1967 |
Không rõ |
87 |
9 năm |
Không rõ |
190 |
Roh |
1962 |
Không rõ |
87 |
10 năm |
Không rõ |
191 |
Y Bhom Kdoh |
1965 |
O8/10/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
192 |
Y Chon Nie |
1968 |
29/1O/2012 |
87 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
193 |
Ksor Ruk |
1975 |
30/1O/2018 |
87 |
10 năm |
Trại tạm giam CA tỉnh Gia Lai |
194 |
Romah Daih |
|
O8/7/2005 |
87 |
10 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
195 |
Kpuih Bop |
|
O8/7/2005 |
87 |
9 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
196 |
Thao A Vang |
1986 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
197 |
Vang A Phu |
1977 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
198 |
Vang A Phu |
1988 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
199 |
Vang A De |
1990 |
Không rõ |
87 |
20 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
200 |
Thao A Vang |
1962 |
Không rõ |
87 |
18 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
201 |
Phang A Vang |
1988 |
Không rõ |
87 |
15 năm |
Trại giam Na Tàu, Điện Biên |
202 |
Lê Thị Hồng Hạnh |
1979 |
13/11/2017 |
245 |
3 năm |
Không rõ |
203 |
Bùi Văn Trung |
1964 |
26/6/2017 |
245 |
6 năm |
Trại giam An Phước, Bình Dương |
204 |
Bùi Văn Thắm |
1987 |
26/6/2017 |
245, 247 |
6 năm |
Trại giam Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu |
205 |
Nguyễn Hoàng Nam |
1982 |
26/6/2017 |
245 |
4 năm |
Trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai |
206 |
Đặng Thị Huệ |
1981 |
16/10/2019 |
318 |
3.5 |
Soc Son temporary detention |
207 |
Bùi Mạnh Tiến |
|
16/10/2019 |
318 |
1.25 |
Soc Son temporary detention |
208 |
Hà Văn Nam |
1981 |
5-Mar-19 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bắc Ninh |
209 |
Nguyễn Quỳnh Phong |
1985 |
5-Mar-19 |
318 |
3 năm |
|
210 |
Lê Văn Khiển |
1990 |
5-Mar-19 |
318 |
2.5 năm |
|
211 |
Nguyễn Tuấn Quân |
1984 |
5-Mar-19 |
318 |
2 năm |
|
212 |
Vũ Văn Hà |
1990 |
5-Mar-19 |
318 |
2 năm |
|
213 |
Ngô Quang Hùng |
1993 |
5-Mar-19 |
318 |
2 năm |
|
214 |
Trần Thị Tiến |
1960 |
O3/8/2017 |
318 |
3 năm |
Không rõ |
215 |
Trần Thị Ngọc |
1961 |
O3/8/2017 |
318 |
3.5 năm |
Không rõ |
216 |
Nguyễn Văn Minh |
1966 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
217 |
Nguyễn Văn Hùng |
1992 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
218 |
Nguyễn Phương Đông |
1994 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
219 |
Nguyễn Văn Mạnh |
1994 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
220 |
Phạm Văn Sang |
2002 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
221 |
Đỗ Văn Ngọc |
1996 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
222 |
Ngô Văn Đạt |
1989 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
223 |
Nguyễn Chương |
1995 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
224 |
Ngô Đức Duyên |
1998 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
225 |
Phạm Thanh Nam |
1990 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
226 |
Lê Văn Liêm |
1996 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
227 |
Nguyễn Ngọc Sang |
1996 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
228 |
Bùi Thanh Tú |
1990 |
1O/6/2018 |
318 |
5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
229 |
Nguyễn Văn Tiến |
1998 |
1O/6/2018 |
318 |
4.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
230 |
Nguyễn Văn Thuận |
1999 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
231 |
Nguyễn Ngọc Bình |
1992 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
232 |
Nguyen Van Tan |
1990 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
233 |
Đỗ Văn Thắng |
1999 |
1O/6/2018 |
318 |
4 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
234 |
Nguyễn Tấn Vũ |
2000 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
235 |
Ho Van Tam |
1989 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
236 |
Nguyen Van Hung |
1995 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
237 |
Nguyễn Văn Hiếu |
1998 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
238 |
Trần Văn Xi |
1995 |
1O/6/2018 |
318 |
3.5 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
239 |
Ngô Đức Thuận |
2000 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Trại tạm giam của CA Bình Thuận |
240 |
Nguyễn Văn Tuấn |
1988 |
1O/6/2018 |
318 |
3 năm |
Không rõ |
241 |
Phạm Thị Thu Thuỷ |
1974 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
242 |
Võ Văn Trụ |
1982 |
1O/6/2018 |
318 |
2.5 năm |
Trại tạm giam của CA HCM |
243 |
Huỳnh Thục Vy |
1985 |
|
276 |
33 tháng |
Tại gia |
244 |
Trần Đình Sang |
1980 |
O9/4/2019 |
330 |
2 năm |
Trại tạm giam của CA Yên Bái |
245 |
Nguyễn Quang Tuy |
|
O9/2/2019 |
330 |
2 năm |
Hưng Nguyên, Nghệ An |
246 |
Nguyễn Văn Oai |
1981 |
19/1/2017 |
257, 304 |
5 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
247 |
Mục sư A Đảo |
81 |
18/8/2018 |
91 |
8 năm |
Trại giam Gia Trung, Gia Lai |
248 |
Trần Minh Lợi |
1968 |
Không rõ |
290 |
6 năm |
Không rõ |
249 |
Nguyễn Văn Hữu |
1957 |
Không rõ |
Không rõ |
6 năm |
Không rõ |
250 |
Dieu Bre |
1969 |
Không rõ |
Không rõ |
4,5 năm |
Không rõ |
251 |
A Gron |
1943 |
Không rõ |
Không rõ |
8 năm |
Không rõ |
252 |
Dinh Ngo |
1987 |
Không rõ |
Không rõ |
7,5 năm |
Không rõ |
253 |
Pastor Runh |
1979 |
Không rõ |
Không rõ |
10 năm |
Không rõ |
254 |
Pastor Y Muk Nie |
1968 |
Không rõ |
Không rõ |
9 năm |
Không rõ |
255 |
Pastor Siu Nheo |
1955 |
Không rõ |
Không rõ |
10 năm |
Không rõ |
256 |
Y Ty Ksor |
1989 |
Không rõ |
Không rõ |
14 năm |
Không rõ |
257 |
Siu Bler |
1962 |
Không rõ |
Không rõ |
17 năm |
Không rõ |
258 |
Y Kur Bdap |
1971 |
Không rõ |
Không rõ |
17 năm |
Không rõ |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Danh sách tù nhân lương tâm mãn hạn tù trong 6 tháng đầu năm 2020 |
|
|
|
|
|
|
TT |
Tên |
Năm sinh |
Ngày bị bắt |
Tội danh |
Án tù |
Ngày được tự do |
1 |
Quách Nguyễn Anh Khoa |
|
|
331 |
6 tháng |
Không rõ |
2 |
Pastor Y Ngun Knul |
1968 |
29/O4/2004 |
87 |
18 năm |
29/4/2020 |
3 |
Huỳnh Đức Thịnh |
1952 |
O8/7/2018 |
390 |
1 năm |
không rõ |
4 |
Ngô Hào |
1948 |
O2/2013 |
79 (109) |
15 năm |
Tháng 2 năm 2020 |
5 |
Phạm Thị Bích Ngọc |
1994 |
16/O2/2017 |
88 |
3 năm |
Tháng 2 năm 2020 |
6 |
Pham Van Trong |
1994 |
30/O4/2017 |
88 |
3 năm |
30/4/2020 |
7 |
Nguyen Thanh Binh |
1994 |
30/O4/2017 |
88 |
3 năm |
30/4/2020 |
8 |
Phạm Xuân Hào |
1965 |
|
331 |
1 năm |
Không rõ |
9 |
Nguyễn Văn Nghĩa |
1989 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10/6/202O |
10 |
Nguyễn Đình Vũ |
1977 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10/6/202O |
11 |
Trần Thị Ngọc |
1968 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10/6/202O |
12 |
Nguyen Van Meo |
1970 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10/6/202O |
13 |
Nguyen Minh Kha |
2000 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10/6/202O |
14 |
Trương Ngọc Hiền |
1997 |
1O/6/2018 |
318 |
2 năm |
10/6/202O |
15 |
Venerable Thach Thuol |
1985 |
20/5/2013 |
91 |
6 năm |
20/5/2020 |
16 |
Hồ Văn Hải |
1957 |
O2/11/2016 |
88 |
4 năm |
17-Apr-20 |
17 |
Lê Minh Thể |
1963 |
10/1O/2018 |
331 |
2 năm |
10/7/20 |
18 |
Lê Trọng Nghĩa |
1987 |
1O/6/2018 |
318 |
27 tháng |
Không rõ |
19 |
Đặng Văn Tuấn |
1985 |
1O/6/2018 |
318 |
27 tháng |
Không rõ |
20 |
Trần Quang Hải |
1991 |
5-Mar-19 |
318 |
1.5 năm |
Không rõ |
21 |
Đoàn Khánh Vinh Quang |
1976 |
1O/6/2018 |
331 |
27 tháng |
Không rõ |
22 |
Nguyễn Đình Vũ |
1977 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
Expected to be in ẻly September |
23 |
Trần Thị Ngọc |
1968 |
1O/6/2018 |
318 |
2 |
Expected to be in ẻly September |
October 2, 2020
Thống kê mới nhất của Người Bảo vệ Nhân quyền: Cộng sản Việt Nam giam giữ 258 tù nhân lương tâm
by Nhan Quyen • DEFENDER’S WEEKLY
Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders)
Thông cáo báo chí, ngày 2/10/2020
Theo thống kê của tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền, tính đến ngày 30/9/2020, chế độ cộng sản Việt Nam đang giam giữ ít nhất 258 tù nhân lương tâm trong các nhà tù hoặc các hình thức giam giữ khác. Con số này không bao gồm ôngNgô Hào- người đang được tạm hoãn thi hành án để chữa bệnh, và hai nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Trung Lĩnh cùng Lê Anh Hùng- những người đang bị chữa trị cưỡng bức trong bệnh viện tâm thần mà không qua thủ tục xét xử. Danh sách này bao gồm nhà hoạt động Huỳnh Thục Vy, người bị kết án 29 tháng tù giam nhưng được hoãn thi hành án và bị quản thúc vì đang nuôi con nhỏ, công dân Hoa Kỳ Michael Minh Phương Nguyễn, người bị kết tội “âm mưu lật đổ chính phủ” theo Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015 của nước này, và công dân Úc Châu Văn Khảm, người bị kết tội khủng bố theo Điều 113 của Bộ luật Hình sự.
Con số trên không bao gồm 15 dân oan từ xã Đồng Tâm, những người bị bắt vào ngày 9/1 năm nay trong cuộc tấn côngcủa công an vào địa phương và bị kết tội “chống người thi hành công vụ” trong phiên xử sơ thẩm vào các ngày 7-14/ 9 nhưng bị kết án treo.
Trong số 258 tù nhân lương tâm có 28 người là phụ nữ. Có 188 người thuộc nhóm sắc tộc Kinh. Nhóm sắc tộc lớn thứ hai trong danh sách là người Thượng, một nhóm người dân tộc thiểu số sống ở vùng núi Tây Nguyên. Họ có 62 người, chiếm 24%. Sáu tù nhân lương tâm là người Hmong và 2 người là Khmer Krom.
Tù nhân lương tâm trong danh sách của Người Bảo vệ Nhân quyền là những blogger, luật sư, người hoạt động công đoàn, nhà hoạt động về quyền đất đai, nhà bất đồng chính kiến, người hoạt động nhân quyền và tín đồ của các tôn giáo thiểu số không đăng ký đã bị bắt giữ và kết án chỉ vì thực hiện một cách ôn hoà các quyền được bảo vệ bởi các công ước nhân quyền quốc tế và hiến pháp Việt Nam như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do của tôn giáo hoặc niềm tin. Danh sách này không bao gồm các cá nhân đã tham gia hoặc ủng hộ bạo lực.
Việt Nam vẫn đang giam giữ 28 nhà hoạt động trước khi xét xử, 7 người trong số họ bị bắt trong hai năm 2018-2019 và 21 người còn lại bị bắt vào năm 2020. Trong số đó có nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam (IJAVN) cùng Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thụy và blogger Phạm Chí Thành (tức Phạm Thành)
Những người trên bao gồm 230 người đã bị kết án – hầu hết là bị kết án với tội danh chính trị theo các Điều 79, 87 và 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 109, 116, 117 và 331 trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng số trên bao gồm:
– 49 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội lật đổ chế độ (Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 48 nhà hoạt động bị kết án hoặc bị buộc tội tuyên truyền chống nhà nước (Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 56 người dân tộc thiểu số bị kết tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc (Điều 87 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 16 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015);
– 13 nhà hoạt động bị kết án hoặc buộc tội “gây rối an ninh” theo Điều 118 Bộ luật Hình sự 2015;
– 45 cá nhân bị kết án hoặc truy tố tội “Gây rối trật tự công cộng” (theo Điều 245 Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015) vì hoạt động ôn hòa. Ba mươi ba người trong số họ đã bị bỏ tù vì tham gia hoặc bị nghi ngờ lên kế hoạch tham gia vào các cuộc biểu tình quần chúng vào giữa tháng 6 năm 2018;
– Ba nhà hoạt động Châu Văn Khảm (công dân Úc gốc Việt), Nguyễn Văn Viên và Trần Văn Quyền bị kết tội “khủng bố” theo Điều 113 Bộ luật Hình sự 2015.
– Hiện chưa rõ tội danh cho 13 cá nhân, trong đó có 3 người theo Montagaards thuộc giáo phái Hà Mòn bị bắt vào ngày 19/3 năm nay.
Bối cảnh trong nước và quốc tế
Để đảm bảo “xã hội ổn định” cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền tiến hành đại hội đảng bộ địa phương các cấp và chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 dự kiến vào tháng 1 năm 2021, chế độ cộng sản đã thắt chặt quyền kiểm soát đối chính trị, tăng cường đàn áp những người bất đồng chính kiến, những người chỉ trích chính phủ, người hoạt động xã hội và những người bảo vệ nhân quyền.
Cuộc đàn áp tiếp tục diễn ra trước và sau khi Nghị viện châu Âu phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) vào cuối tháng 3 và dự kiến sẽ khốc liệt hơn trong ba tháng còn lại của năm nay.
Khi Hoa Kỳ, EU và các nước khác đang tập trung vào các vấn đề của riêng họ do đại dịch Covid-19 gây ra và cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ vào ngày 3/11, chế độ cộng sản Việt Nam dường như tận dụng cơ hội để tăng cường đàn áp bất đồng chính kiến trong nước mà không bị chỉ trích bởi cộng đồng quốc tế. Cuộc đàn áp đã lên đến đỉnh điểm trong những tháng gần đây với việc bắt giữ hàng chục nhà hoạt động và buộc tội họ với những điều khoản gây tranh cãi về các điều khoản an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự.
Bắt giữ từ tháng 7 đến cuối tháng 9
Từ ngày 1/7 đến ngày 30/9, Việt Nam đã bắt giữ bốn nhà hoạt động. Cựu nhà báo Trần Thị Tuyết Diệu của tờ báo Phú Yên bị bắt vào ngày 21/8 với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự trong khi người khiếu kiện đất đai là Lê Văn Hải, công dân tỉnh Nghệ An Nguyễn Quang Vinh và cán bộ Quách Duy của Văn phòng Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bị bắt và bị khởi tố về tội “lợi dụng tự do dân chủ” theo Điều 331. Việc bắt giữ họ dựa trên các bài đăng của họ trên Facebook liên quan đến các vấn đề của đất nước như tham nhũng có hệ thống, ô nhiễm môi trường lan rộng, các chính sách tồi của chính phủ cộng sản Việt Nam trong quản lý kinh tế xã hội, và phản ứng yếu ớt của chế độ cộng sản Việt Nam trước việc Trung Cộng xâm phạm chủ quyền quốc gia ở Biển Đông.
Từ đầu năm 2020, chế độ cộng sản Việt Nam đã bắt giữ 24 nhà hoạt động và 29 dân oan ở xã Đồng Tâm. Có tới 13 nhà hoạt động bị buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự vì các bài viết của họ và trả lời phỏng vấn truyền thông nước ngoài cũng như báo cáo các hành vi vi phạm nhân quyền cho đại diện ngoại giao nước ngoài.
Trong số những người bị bắt giữ có hai thành viên của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN), Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn, blogger nổi tiếng Phạm Chí Thành (bút danh Phạm Thành), cũng như nhà hoạtđộng môi trường Đinh Thị Thu Thủy đến từ tỉnh Hậu Giang. Ông Thụy, 68 tuổi và ông Tuấn, 31 tuổi, đang bị điều tra trong cùng một vụ án “tuyên truyền chống nhà nước” với Chủ tịch IJAVN Phạm Chí Dũng, người đã bị bắt vào tháng 11 năm ngoái.
Vào cuối tháng 9, công an tỉnh Đắk Lắk đã bắt cóc tiến sỹ Phạm Đình Quý, giảng viên Đại học Tôn Đức Thắng và Hoàng Minh Tuấn, giáo viên trường THPT Lê Thánh Tôn, thành phố Nha Trang, và đưa họ về giam tại trại tạm giam của công an tỉnh Dak Lak để thẩm vấn về việc họ tố cáo Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Bùi Văn Cường đạo văn khi làm luận án tiến sĩ. Hai người này đã bị tạm giữ và có thể bị truy cứu về tội “vu khống” khi Công an tỉnh Đắk Lắk hình sự hóa một vụ tranh chấp dân sự giữa hai người bị tạm giữ và Bí thư Cường, người là Ủy viên Trung ương Đảng và một trong những ứng cử viên cho chức bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho nhiệm kỳ tới.
Kết án trong tháng 7-9
Trong thời gian này, chế độ cộng sản đã tổ chức ba phiên tòa sơ thẩm riêng biệt để kết án tám thành viên của nhóm Hiến Pháp, 29 dân oan đất Đồng Tâm và nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Quốc Đức Vượng.
Ngày 31/7, Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết án tám thành viên của Hiến Pháp là ba bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Hoàng Thị Thu Vang, và Đoàn Thị Hồng, và năm ông là Ngô Văn Dũng, Trần Thanh Phương, Lê Quý Lộc, Đỗ Thế Hóa và Hồ Văn Cường. Tất cả 8 người bị bắt vào đầu tháng 9 năm 2018 và bị buộc tội “gây rối an ninh” theo Điều 118 của Bộ luật Hình sự chỉ vì họ tham gia tích cực trong cuộc biểu tình tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10/6/2018, trong đó hàng chục ngàn người đã biểu tình phản đối hai dự luật về Đặc khu kinh tế và An ninh mạng. Trong thời gian xét xử ngắn ngủi không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về một phiên tòa công bằng, các nhà hoạt động đã bị kết án từ 30 tháng đến 8 năm tù và 2 đến 3 năm quản chế. Bốn nhà hoạt động Ngô Văn Dũng, Lê Quý Lộc, Hồ Văn Cương, và Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã kháng cáo phán quyết của tòa án trong khi bốn nhà hoạt động còn lại chấp nhận và họ bị chuyển đến trại tù Bố Lá để thi hành án.
Vào ngày 7/7, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã kết tội Facebooker Nguyễn Quốc Đức Vương với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” và tuyên phạt anh tám năm tù và ba năm quản chế.
Từ tháng 1 đến tháng 9, chế độ cộng sản Việt Nam đã kết án 15 nhà hoạt động từ chín tháng đến tám năm tù và 14 dân oan từ xã Đồng Tâm. Trong số các nhà hoạt động bị kết án, Nguyễn Văn Nghiêm và Phan Công Hải lần lượt bị kết án sáu năm và năm năm tù giam vì “tuyên truyền chống nhà nước” cho các bài đăng trên Facebook của họ trong khi Chung Hoàng Chương và Mã Phùng Ngọc Phú đã bị kết án 18 tháng và chín tháng tù tương ứng sau khi bị kết tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 cũng vì các bài đăng trên Facebook của họ. Hai người còn lại bị kết án là Đặng Thị Huệ và Bùi Mạnh Tiến vì nỗ lực chống tham nhũng chống thu phí đường bộ trái phép của các trạm thu phí BOT, có khả năng được các quan chức cấp cao của chế độ ủng hộ. Bộ đôi này đã bị Toà án Nhân dân huyện Sóc Sơn tuyên phạt lần lượt 42 và 15 tháng tù giam vào đầu tháng 5 vừa qua.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã y án bản án 11 năm tù giam và 5 năm quản chế đối với nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Năng Tĩnh về tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước.”
Ngược đãi trong tù
Bộ Công an Việt Nam tiếp tục chính sách giam giữ các tù nhân, đặc biệt là tù nhân lương tâm, trong điều kiện sống khắc nghiệt để trừng phạt họ vì những hoạt động bất bạo động nhưng có hại cho chế độ cộng sản và bẻ gãy tinh thần của họ. Cùng với việc đưa các tù nhân lương tâm đến các trại giam xa gia đình, bộ cho phép giám thị các nhà tù áp dụng các biện pháp tâm lý khác để khiến cuộc sống của các nhà hoạt động bị bỏ tù trở nên khó khăn hơn, chẳng hạn như từ chối họ quyền được gặp gỡ thường xuyên với gia đình và nhận thêm thức ăn và thuốc từ người thân của họ, hoặc buộc họ làm việc nặng nhọc mà không có dụng cụ bảo hộ thích hợp. Giám thị và quản giáo cũng gây thêm tổn thương về tâm lý và tài chính cho các thành viên trong gia đình của thù nhân lương tâm.
Vào giữa tháng 4, cảnh sát đã hành hung các tù nhân lương tâm Ngô Văn Dũng và Lê Quý Lộc khi họ bị giam tại trại tạm giam Phan Đăng Lưu, thuộc Công an thành phố Hồ Chí Minh. Do vết thương quá nặng gây ra bởi các cuộc tấn công, cả hai phải nhập viện điều trị trong một tuần. Sau đó, ông Lộc được đưa trở lại cơ sở giam giữ trên còn ông Dũng được chuyển đến cơ sở tạm giam Chí Hòa cũng thuộc thẩm quyền của công an thành phố trước khi chuyển ông về chỗ cũ.
Vào đầu tháng Giêng, chính quyền tại Trại giam Ba Sao ở tỉnh Hà Nam đã giam Phan Kim Khánh và Nguyễn Viết Dũng trong phòng biệt giam trong nhiều tuần để trả thù vì họ phản đối việc đối xử vô nhân đạo trong tù.
Nhà hoạt động Đoàn Thị Hồng bị giam giữ nói với gia đình rằng cô bị giam giữ trong điều kiện sống khắc nghiệt trong một cơ sở tạm giữ thuộc thẩm quyền của Công an thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn điều tra cũng như trong thời gian tạm giam trước khi xét xử.
Chính quyền Trại giam Xuân Lộc tiếp tục giam giữ các tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đức Độ và Huỳnh Đức Thanh Bình trong một khu biệt lập dành cho các tù nhân bị kỷ luật từ tháng 5 như hình phạt bổ sung sau khi họ yêu cầu đặc quyền ngoài trời trong những ngày cuối tuần. Gia đình của họ được phép tiến hành thăm nhà tù hai tháng một lần trongkhi hàng tháng gia đình các tù nhân khác được đến thăm một lần và một lần cung cấp thực phẩm. Những người bị giam giữ trong khu vực kỷ luật không được phép gặp các tù nhân chính trị và hình sự. Gia đình ông Độ đã báo cáo rằng banlãnh đạo Trại giam Xuân Lộc đã đánh ông và trộn chất thải của con người vào cơm của ông.
Từ tháng 3 đến tháng 8, khi đại dịch COVID-19 đang lan rộng trên toàn quốc, chính quyền các trại tù và cơ sở tạm giữ của Việt Nam đã không cho phép gia đình và thân nhân của các tù nhân lương tâm gặp họ hoặc cung cấp thêm thực phẩm và thuốc men cho họ, cũng như các mặt hàng thiết yếu khác. Vì phẩm cấp thực phẩm thấp, sức khỏe yếu và điềukiện vệ sinh thấp kém trong các nhà tù, cuộc sống của các tù nhân lương tâm thường bị đe dọa nghiêm trọng.
Cùng với việc đàn áp tù nhân lương tâm, chính quyền một số địa phương còn sách nhiễu gia đình họ. Sau khi bắt cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu và hai con trai của bà là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” vào cuối tháng 6, Công an Hà Nội và Hòa Bình liên tục uy hiếp gia đình bà, triệu tập chồng bà là ông Trịnh Bá. Khiêm, cũng là một cựu tù nhân lương tâm và vợ ông Phương là bà Đỗ Thị Thu đến đồn cảnh sát để thẩm vấn về hoạt động của những người bị giam giữ.
Mãn hạn tù từ tháng 7 đến tháng 9
Cuối tháng 6, blogger Hồ Hải được trả tự do sau 4 năm ngồi tù. Năm 2016, ông bị bắt và bị buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” cho các bài đăng trên Facebook của mình. Chúng tôi đã không thông báo về việc mãn hạn tù của ông trong báo cáo giữa năm.
Trong 3 tháng của quý 3, có năm người đã được trả tự do hoặc mãn hạn tù. Vào ngày 18/9, mục sư Tin lành A Đảo đã được trả tự do sau 4 năm tù giam nhờ lời kêu gọi của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ và một số dân biểu Hoa Kỳ. Ông ta bị bắt vào tháng 8 năm 2016 và bị kết án 5 năm tù sau khi tham gia một hội nghị tôn giáo khu vực ở Đông Timor.
Vào đầu tháng Bảy, ông Lê Minh Thế, một thành viên của nhóm Hiến Pháp, được trả tự do trước thời hạn ba tháng trước khi bản án hai năm tù của ông kết thúc vào tháng Mười. Ông bị bắt vào ngày 10/10/2018 và bị buộc tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ” cũng vì bài đăng trên Facebook của anh ta.
Đoàn Khánh Vinh Quang, người bị bắt vào ngày 10/6/ 2018 với cáo buộc “lạm dụng quyền tự do dân chủ” và sau đó bị kết án 27 tháng tù, dự kiến sẽ được thả vào ngày 10/9 năm nay.
Ba nhà hoạt động Đặng Văn Tuấn, Lê Trọng Nghĩa và Trần Quang Khải, bị kết tội “gây rối trật tự công cộng” và bị kết án từ 18 tháng đến 27 tháng tù, cũng đến hạn mãn hạn tù trong tháng Chín.
Từ đầu năm đến nay, 23 tù nhân lương tâm đã được trả tự do hoặc dự kiến sẽ mãn hạn tù. Người Bảo vệ Nhân quyềnkhông có thông tin xác nhận việc trả tự do cho 15 nhà hoạt động. Tuy nhiên, tổ chức vẫn đưa tên họ ra khỏi danh sách này.
Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền lo ngại về việc nhà cầm quyền Hà Nội đang giam giữ hai nhà hoạt động Nguyễn Trung Lĩnh và Lê Anh Hùng trong một trại tâm thần tại địa phương sau khi điều tra họ về các cáo buộc tương ứng là “tuyên truyền chống nhà nước” và “lạm dụng tự do dân chủ” mà không có bất kỳ thủ tục xét xử nào. Hai nhà hoạt động bị cưỡng bức dùng thuốc, vốn bị coi là tra tấn theo luật pháp quốc tế.
=============
Thuật ngữ tù nhân lương tâm (POC) được Peter Benenson đưa ra vào những năm 1960. Khái niệm này đề cập đến bất kỳ cá nhân nào bị giam cầm vì niềm tin chính trị, tôn giáo hoặc vì lương tâm, nguồn gốc dân tộc, giới tính, màu da, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tình trạng kinh tế, sinh sản, khuynh hướng tình dục hoặc tình trạng khác mà không sử dụng bạo lực hoặc ủng hộ bạo lực hoặc thù hận.
Tổ chức Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders– DTD) là tổ chức phi lợi nhuận độc lập ở Việt Nam, hoạt động nhằm thúc đẩy quyền con người và quyền công dân. Tổ chức này có một mạng lưới với hàng trăm người bảo vệ nhân quyền trên toàn quốc, những người báo cáo tình trạng vi phạm nhân quyền trong khu vực của họ.
============
Phụ lục: Danh sách tù nhân lương tâm và danh sách các tù nhân lương tâm được trả tự do từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2020